Nhiều thể bệnh quá tải sắt
Trên thực tế có nhiều thể bệnh quá tải sắt: type 1 gặp nhiều nhất và type 4 (hay gọi là bệnh
ferroportin) là hai thể khởi phát ở người lớn. Nam giới bị bệnh type 1 hoặc type 4 thường phát triển
các triệu chứng trong độ tuổi từ 40 - 60, còn phụ nữ bị bệnh thường phát triển các triệu chứng sau
khi mãn kinh. Type 2 khởi phát ở độ tuổi vị thành niên, triệu chứng bệnh có thể xuất hiện trong thời
thơ ấu. Nam giới có thể bị trì hoãn tuổi dậy thì hoặc có triệu chứng thiếu hụt nội tiết tố như bất
lực. Nữ giới thường bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt trong tuổi dậy thì một cách bình thường, nhưng chu
kỳ kinh nguyệt dừng lại sau một vài năm.
Nếu không được điều trị, bệnh nhân sẽ có nguy cơ mắc bệnh
tim ở độ tuổi 30. Type 3 thường là trung gian giữa type 1 và 2. Các triệu chứng bệnh type 3 thường bắt
đầu trước tuổi 30. Bệnh ở trẻ sơ sinh: tiến triển nhanh chóng, đặc trưng bởi tổn thương gan từ lúc
sinh hay trong ngày đầu tiên sau sinh. Ngoài yếu tố di truyền còn có thể bệnh thứ phát do các bệnh:
Thalassemia, thiếu máu sideroblastic, người đã được truyền máu với số lượng lớn, bệnh thiếu máu tán
huyết, nghiện rượu mạn tính...

Không nên tự ý bổ sung sắt và các loại vitamin
Dấu hiệu phát hiện bệnh
Đau khớp là triệu chứng phổ biến nhất của những người bị bệnh quá tải sắt. Các triệu chứng khác bao gồm: mệt mỏi, thiếu năng lượng, đau bụng, mất ham muốn tình dục và các bệnh tim. Nhưng trên thực tế, nhiều bệnh nhân vẫn không có triệu chứng khi khám bệnh. Nếu bệnh không được phát hiện và điều trị sớm, sắt tích tụ trong các mô dẫn đến các bệnh nặng như: viêm khớp; gan to, xơ gan, ung thư và suy gan; tổn thương tuyến tụy, có thể gây ra bệnh tiểu đường; loạn nhịp tim, suy tim sung huyết; bất lực ở nam giới; mãn kinh sớm ở nữ; da có màu xám hoặc đồng; suy nhược tuyến giáp; tổn thương tuyến thượng thận...
Xét nghiệm máu thấy sắt trong huyết thanh cao hơn bình thường; Transferrin bão hòa cao hơn 45% được coi là quá cao; sinh thiết gan thấy sắt đã tích lũy trong gan và có tổn thương gan; siêu âm tim để kiểm tra chức năng của tim; chụp cắt lớp, chụp cộng hưởng từ để phát hiện tổn thương các cơ quan nội tạng.

Chủ yếu là loại bỏ lượng sắt dư thừa. Quá trình này được gọi là lấy máu tĩnh mạch (phlebotomy).
Căn cứ vào mức độ quá tải sắt nhiều hay ít mà người ta sẽ thực hiện thủ thuật này một lần hoặc hai
lần một tuần, trong thời gian từ vài tháng đến một năm hoặc lâu hơn. Nồng độ ferritin sẽ được kiểm
tra định kỳ để theo dõi mức độ sắt trong cơ thể nhằm mục đích điều chỉnh lại mức độ Ferritin trong
máu đến mức thấp nhất của trị số bình thường và giữ ổn định ở mức này.
Điều trị cho đến khi lượng sắt trở lại bình thường thì điều trị duy trì, cần xét nghiệm Ferritin
trong máu hàng năm để xác định mức độ thường xuyên cần loại bỏ số lượng máu. Việc điều trị sớm
trước khi các cơ quan tồn trữ sắt bị tổn thương như bệnh gan, bệnh tim, viêm khớp và bệnh tiểu
đường thì có thể ngăn chặn được các tổn thương ở các cơ quan này. Điều trị bệnh quá tải sắt tích
cực có thể ngăn chặn sự tiến triển của bệnh gan giai đoạn đầu, mang đến tuổi thọ bình thường cho
bệnh nhân. Tuy nhiên, nếu xơ gan hoặc sẹo gan đã phát triển, ngay cả khi dự trữ sắt được giảm đến
mức bình thường thì bệnh nhân vẫn bị nguy cơ phát triển ung thư gan tăng lên. Điều trị có thể không
chữa trị các bệnh liên quan đến quá tải sắt nhưng nó sẽ giúp hầu hết bệnh nhân được cải thiện sức
khỏe. Chỉ riêng bệnh viêm khớp là không được cải thiện dù lượng sắt dư thừa được loại bỏ hết.
Nên và không nên
Người bị bệnh quá tải sắt không nên dùng sắt hoặc vitamin C bổ sung trong khẩu phần dinh dưỡng
hàng ngày. Những bệnh nhân có tổn thương gan không nên dùng đồ uống có cồn vì chúng có thể gây hại
cho gan. Đối với cha mẹ, anh chị em ruột, con ruột và người thân có quan hệ huyết thống của những
người mắc bệnh quá tải sắt cần phải xét nghiệm máu để xem nếu họ có bệnh hoặc là người lành mang
bệnh. Bệnh nhân có bệnh khớp dù là nghiêm trọng hay đang diễn tiến, bệnh tim, tăng men gan, liệt
dương và bệnh tiểu đường cũng cần xét nghiệm phát hiện bệnh quá tải sắt để điều trị sớm.
Bình luận của bạn