Succinate - "chiến binh" trên mọi mặt trận cho cơ thể

Trong bài viết này, GS.TSKH Hoàng Tích Huyền – Nguyên Trưởng Bộ môn Dược, Đại học Y Hà Nội – sẽ giải thích rõ hơn về cơ chế tác động của succinate với cơ thể, đặc biệt là trong điều trị thiếu oxy mô.

Thiếu oxy mô là gì?

Thiếu oxy máu là khi có nồng độ oxy thấp bất thường trong máu. Thiếu oxy mô là khi các mô trong cơ thể không nhận đủ lượng oxy đúng nhu cầu để hoạt động đầy đủ. Có nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng này. Đó là: do áp suất không khí thấp ở nhiệt độ cao; Giảm dòng máu lưu thông, hạ huyết áp; Giảm hồng cầu hoặc hermoglobin; Không đủ oxy cung cấp cho máu ở phổi, do thở kém, các bệnh phế quản – phổi làm giảm diện tích có hiệu lực của mô phổi; Rối loạn dòng máy khi suy tim, tim bơm không đủ máu, tim bị “đói oxy” khiến các mô khác cũng bị đói oxy theo như phổi, não, gan, thận…


Acid Succinate được ứng dụng trong điều trị chống độc tại nhiều bệnh viện

Thiếu oxy – mô làm rối loạn cân bằng nội mô tế bào, thiếu hụt năng lượng kiêm thiếu máu cục bộ của tế bào gây nhiễm acid, giảm hoạt tính phospholipase, giảm tổng hợp protein, các quá trình của cơ thể ngừng trệ, kéo theo hậu quả như stress, mệt mỏi, dễ mắc bệnh do giảm sản xuất kháng thể.

Vai trò của succinate trong giảm oxy mô

Succinate là chất chống giảm oxy máu, giảm oxy mô mạnh nhất. Tham gia vào chu trình Krebs trong ty lạp thể, khôi phục các enzyme của chuỗi hô hấp tế bào như cytochrom – oxydase, superoxyd – dismutase (SOD), tăng hiệu lực của AND của ty lạp thể (mitochondrial DNA, mtDNA), tăng nồng độ glutathione – khử (G-SH). Succinate nâng cao hiệu quả sử dụng acid béo và glucose trong tế bào, tăng cường dòng điện tử trong chuỗi hô hấp ty lạp thể, giúp tăng nhanh sự tổng hợp ưa khí ATP, loại trừ sự hao hụt năng lượng trong tế bào, từ đó giúp mô và cơ quan chống chọi có hiệu quả, chống sự “đói oxy” ở mô.

Hiệu lực của succinate kích thích hô hấp tế bào đặc biệt lớn: 3.000 – 6.000% trong gan, 450 – 550% trong vỏ thận, 250 – 550% trog não, cơ vân, cơ trơn, 50 – 150% trong phổi và niêm mạch ống tiêu hóa.

Khi giảm oxy máu, chu trình Krebs sẽ trục trặc, khiến tích lũy các thành phần có hại như lactate, pyruvat, citrate, malonyl-aldehyde, gây nhiễm độc nội sinh, kéo theo gây thiếu oxy mô, phá vỡ hệ vận chuyển oxy. Bổ sung succinate sẽ cải thiện quá trình bệnh lý kể trên và giúp bình thường hóa sự cân bằng acid-base và thành phần khí trong máu.


Thế giới đã chứng minh được tác dụng của succinate trong điều trị chống độc, trong điều trị bệnh tim mạch, ung bướu...

Áp dụng điều trị của succinate

Dựa vào cơ chế tác dụng khái quát của succinate là thúc đẩy sự quay vòng chuyển hóa hài hòa của vòng Krebs, giúp ty lạp thể tạo đầy đủ năng lượng, làm cho ty lạp thể “cường tráng” và màng tế bào được ổn định, nên succinate được dùng có hiệu quả nổi bật trong rất nhiều bệnh lý khác nhau. Hiện nay, succinate được chỉ định chính đối với một số bệnh như chống độc, trong gây mê hồi sức, trong điều trị đái tháo đường, tim mạch, ung bướu…

Trong chống độc, succinate thường được dùng trong các khoa hồi sức cấp cứu, điều trị tích cực và trong chống độc. Có kết quả lớn trong điều trị ngộ độc cấp. Khi thiếu oxy mô trong ngộ độc cấp, hiệu lực các enzyme trong chu trình Krebs giảm nhanh: dùng succinate được sử dụng tối đa để làm cơ chất tạo năng lượng trong chuỗi hô hấp.

Khi ngộ độc thiopental, amytal và các barbiturate khác, dùng succinate chống độc sẽ tăng tiêu thụ oxy vì quá liều barbiturate sẽ ức chế tiêu thụ oxy.

Trong ngộ độc cấp những thuốc ức chế thần kinh trung ương, dùng succinate làm giảm sự ức chế thần kinh trung ương, rút ngắn thời gian ở trạng thái hôn mê, rút ngắn thời gian nằm ở khoa cấp cứu, thoát nhanh khỏi tình trạng nguy kịch, giảm biến chứng phổi, giảm tỷ lệ tử vong.

Tại Trung tâm chống độc Bệnh viện Bạch Mai (2/2004 – 7/2005) có 44 bệnh nhân ngộ độc Luminal, ma túy, rượu, sảng rượu, rotunda đã được cấp cứu bằng Succinate (Reamberrin) có hiệu quả rõ rệt, đặc biệt khi có tổn thương tế bào gan: các nồng độ trong máu của AST, ALT và bilirubin giảm rõ và không gây rối loạn điện giản.

Succinate còn giải độc khi nhiễm độc barbamyl, cyanid, monoxyd carbon (CO…).

Trong viêm gan virus B, C cấp tính, succinate (Reamberin) cải thiện rõ tình tạng nhiễm độc, mệt mỏi, vàng da kéo dài. So với các nhóm chứng, nhóm sử dụng succinate giảm nhanh các triệu chứng lâm sàng như: nước tiểu vàng, đau tức hạ sườn phải, chán ăn, gan to, rối loạn tiêu hóa, buồn nôn và nôn. Các thông số khác như AST, ALT, bilirubin trong máu cũng hồi phục nhanh (theo đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ Y tế của Bệnh viện Quân y 103, 17/2/2003).

Trong gây mê – phẫu thuật, succinate phục hồi đầy đủ chức năng hô hấp, nhận thức, cải thiện các thông số huyết động và chuyển hóa, cải thiện hội chứng suy đa tạng trong nhiễm khuẩn ổ bụng, trong bỏng, chỉnh hình khớp gối, bệnh lý ngoại khoa nhiều dạng khác nhau, cải thiện chức năng gan, thận, phổi.

Theo kết quả nghiên cứu ở Nga (1999 – 2005), succinate còn có ích trong điều trị những triệu chứng của bàn chân đái tháo đường (rối loạn cảm xúc thần kinh ngoại biên), vảy nến, mày đay mạn, viêm phổi nặng, viêm đa dị ứng, nhiễm khuẩn nặng (kể cả nhiễm virus), viêm đường mật.

Trong khoa thần kinh, succinate điều trị thiếu máu cục bộ, rối loạn tuần hoàn máu, chấn thương sọ não, nhiễm khuẩn thần kinh, bệnh lý não do nhiễm độc với rượu, barbiturate, CCl4…

Trong khoa ung thư, succinate tác động theo cơ chế: ở các tế bào bình thường, sự tiêu glucose (glycolysis) và sự β oxy hóa của acid béo xảy ra bình thường, tất cả theo con đường tạo acetyl – CoA để tham gia vào chu trình Krebs trong ty lạp thể, cuối cùng sinh năng lượng do ADP chuyển thành ATP cung cấp. Nhưng trong ung thư, thì sự chuyển hóa trên bị ngừng trệ, acid béo không vượt qua được màng ty lạp thể, glucose không chuyển được sang pyruvat, hậu quả là tăng sinh ở trong ty lạp thể và toàn tế bào các dạng oxy hoạt động (ROS), các sản phẩm tận cùng của sự glycat hóa (AGE), các gốc tự do có hại như superoxyd, hydroxyl và H2O2. Khi đó sẽ thiếu hụt năng lượng, giảm sút ATP rõ rệt, ảnh hưởng xấu tới hô hấp tế bào, ty lạp thể bị hưu hại cả về cấu trúc và chức năng, hoạt động bất thường của các kênh ion Na+ đi vào tế bào, càng làm tăng sự bất thường của tế bào ung thư, màng tế bào bị kích thích quá mức và thiếu năng lượng, phải đi tìm tới nơi các tế bào lành để “kiếm chác” (di căn).


Đường uống hay tiêm truyền đều phát huy tác dụng tốt

Succinate tham gia thúc đẩy sự vạn hành của chu trình Krebs, nâng cao hiệu quả của acid béo và glucose của tế bào, tạo điều kiện cung cấp năng lượng đầy đủ cho tế bào ác. Succinate còn là chất đồng vận của thụ thể GABA, giúp ổn định màng tế bào ung thư đnag bị kích thích quá mức.

Chính do tác động chống oxy hóa mạnh, “thu dọn” các gốc tự do, cải thiện lưu thông máu, bình thường hóa cân bằng acid – base trong máu, tham gia chu trình ure, tăng chức năng khử độc của gan, tăng bài niệu… mà succinate còn sử dụng có hiệu quả trong các chuyên khoa huyết học, dị ứng và nhiều chuyên khoa khác.

Và tác dụng không mong muốn

Succinate (LD50 - tiêm tĩnh mạch - ở chuột nhắt là 12 300mg/kg, ở chuột cống là 10 800 mg/kg) được coi như không có độc tính trên người (truyền tĩnh mạch nhanh có khi gặp cảm giác nóng đỏ thẫm trên cơ thể, nhưng qua khỏi nhanh). Đối với một số trường hợp (hiếm), thận trọng có thể gặp kiềm hóa máu và nước tiểu, giảm nhẹ nồng độ glucose máu. Tuy nhiên, succinate chống chỉ định đối với trường hợp quá mẫn cảm với thuốc, chấn thương sọ não kèm phù não, rối loạn chức năng thận và phụ nữ trong thai kỳ.
thuychi
Mời quý vị độc giả đọc tin hàng ngày về chủ đề sức khỏe tại suckhoecong.vn trong chuyên mục Điểm tin - Báo bạn