Kim ngân hoa, huyền sâm, hoắc hương, kỷ tử- Ảnh:
K.Vy
Viêm não Nhật Bản là một bệnh trong ôn bệnh của y học cổ truyền (còn gọi là thử ôn, thử kinh, thử quyết), do thử ôn xâm nhập từ biểu vào lý, đốt ở phần khí và doanh huyết; nhiệt cực sinh phong, tân dịch giảm sinh đàm, nếu xuất hiện các chứng sốt cao co giật, mê sảng, đàm làm tắc các khiếu gây hôn mê, chứng nội bế ngoại thoát (trụy tim mạch ngoại biên).
Bệnh biến chuyển theo các giai đoạn gồm: vệ (khởi phát), khí (toàn phát chưa có biến chứng), doanh huyết (toàn phát có biến chứng mất nước, nhiễm độc thần kinh, rối loạn thành mạch) và thương âm, thấp trở ở kinh lạc (hồi phục và di chứng).
Thử ôn thuộc nhiệt nhưng hay kết hợp với thấp nên phải chú ý các trường hợp hoặc thiên về nhiệt hoặc thiên về thấp để chữa cho thích đáng.
Bệnh qua phần vệ rất nhanh rồi chuyển sang phần khí, vì vậy trên lâm sàng hay chia vệ khí là một; rồi đến phần doanh và huyết, đến giai đoạn cuối của bệnh có thể thương âm (do tân dịch giảm) và thể đàm thấp gây ở trên, ở kinh lạc (di chứng thần kinh, tinh thần ở ngoại biên và trung ương).
Bài thuốc
Với thể vệ, khí (giai đoạn khởi phát và toàn phát chưa có biến chứng). Triệu chứng: sốt, hơi sợ lạnh, có mồ hôi hoặc ít mồ hôi, đau đầu, phiền táo lơ mơ, gáy hơi cứng, tinh thần còn tỉnh táo, có thể co giật, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc vàng. Có thể dùng bài thuốc "Ngân kiều thang gia giảm" gồm các vị: kim ngân hoa 16 gr, thạch cao 40 gr, liên kiều 12 gr, bạc hà 8 gr, lô căn 16 gr, hoàng cầm 12 gr. Sắc uống ngày 1 thang. Nếu thấp ôn nặng: rêu lưỡi dày trắng, buồn nôn có thể thêm: hoắc hương 12 gr, bội lan 8 gr, hậu phác 6 gr.
Với thể doanh huyết (giai đoạn toàn phát có biến chứng mất nước điện giải, nhiễm độc thần kinh, rối loạn thành mạch). Triệu chứng: sốt cao, nhức đầu, cổ gáy cứng, miệng khát, co giật, hôn mê, chất lưỡi đỏ, nhịp thở thất thường. Có thể dùng bài thuốc: thạch cao 40 gr, cam thảo đất 16 gr, sinh địa 12 gr, huyền sâm 12 gr, mạch môn 12 gr, kim ngân 16 gr, hoàng đằng 12 gr. Nếu táo bón thêm chút chít 20 gr. Sắc uống ngày 1 thang.
Giai đoạn phục hồi và di chứng, một số bệnh nhân sau khi sốt lui, hồi phục dần dần, một số bệnh nhân do hiện tượng sốt kéo dài lâu ngày gây tân dịch mất (âm hư); một số bệnh nhân có di chứng thần kinh, tinh thần.
Thể âm hư do sốt kéo dài gây tổn thương tân dịch, triệu chứng: triều nhiệt, sáng nhiệt độ bình thường, chiều hơi sốt, miệng khô, chất lưỡi đỏ. Có thể dùng bài thuốc gồm: sinh địa 12 gr, huyền sâm 12 gr, mạch môn 12 gr, a giao 10 gr, sa sâm 12 gr, kỷ tử 8 gr. Nếu phiền táo nhiều, thêm trúc lịch 30 gr. Nếu âm hư nhiều, tay chân co giật, run, chất lưỡi đỏ khô, thêm: quy bản 12 gr, miết giáp 12 gr, mẫu lệ 12 gr. Sắc uống ngày 1 thang.
Thể di chứng: Do bệnh tà làm tổn thương đến tạng phủ, khí huyết, kinh mạch phải sử dụng kết hợp các phương pháp xoa bóp, châm cứu và thuốc để chữa. Di chứng thần kinh ngoại biên: chân tay co quắp, run tay chân do ứ trở ở kinh lạc, cân mạch không được nuôi dưỡng, dùng các bài thuốc sau: mộc qua 8 gr, bạch thược 12 gr, đan sâm 8 gr, địa long 6 gr, tần giao 8 gr, sinh địa 12 gr, đương quy 8 gr. Sắc uống ngày 1 thang.
Di chứng tinh thần: đầu óc trì độn, không nói, triều nhiệt, lưỡi đỏ không có rêu. Dùng bài thuốc sau: quy bản 12 gr, sa sâm 8 gr, sinh địa 12 gr, thạch quyết minh 12 gr, mẫu lệ 16 gr, thạch xương bồ 6 gr, mạch môn 12 gr, địa long 8 gr. Sắc uống ngày 1 thang.
Bình luận của bạn