Nguy cơ mắc sán lá phổi từ ăn tôm, cua sống
10 tỉnh, thành có ca bệnh sán lá phổi
Đặc sản lạ xuất hiện trước Tết
Kỳ lạ phòng khám không có... bác sỹ
Nhiều nông sản bẩn “đội lốt” an toàn
Theo ThS. BS Mai Anh Lợi, bệnh sán lá phổi với 40 loài khác nhau, thuộc giống Paragonimus được phát hiện ở rất nhiều nơi trên thế giới trong đó có Việt Nam nhưng chỉ có trên 10 loài gây bệnh ở người, chủ yếu là loài Paragonimus westermani, còn ở Việt Nam là loài P. heterotremus.
Sán lá phổi đẻ trứng, trứng theo đờm xuống họng ra ngoài môi trường hoặc theo phân khi nuốt đờm. Trứng rơi xuống nước, nở ra ấu trùng lông (miracidium), chui vào ốc phát triển thành ấu trùng đuôi (cercaria), ấu trùng đuôi rời ốc chui vào tôm cua nước ngọt tạo nang ở tổ chức và phủ tạng (ấu trùng nang-metacercaria). Khi con người hay súc vật ăn phải tôm, cua có ấu trùng sán lá phổi chưa nấu chín, ấu trùng sán vào dạ dày và ruột (ấu trùng thoát nang ở tá tràng), xuyên qua thành ống tiêu hoá vào ổ bụng rồi xuyên qua cơ hoành và màng phổi vào nhu mô phổi rồi làm tổ ở đó, một số ít cư trú tại tim, phúc mạc, gan, thận, dưới da, ruột, não ….
Những cơ quan trong cơ thể sán lá phổi có thể sinh sống
Tại phổi: Người mắc bệnh do ăn cua hoặc tôm chưa nấu chín có chứa kí sinh trùng ở giai đoạn ấu trùng nang metacercaria. Sau khi ăn, metacercaria tới phổi và gây bệnh ở phổi. Lúc đầu xung quanh sán thâm nhiễm bạch cầu ái toan và trung tính, sau đó là bạch cầu đơn nhân. Xuất hiện hoại tử khu trú nhu mô phổi, sau đó hình thành nang xơ bao quanh sán trưởng thành. Sau khi nhiễm 7-8 tuần, sán trưởng thành hoàn toàn bắt đầu đẻ trứng ở trong nang. Nang này có thể lớn lên và vỡ, thường là vỡ vào tiểu phế quản.
Tại một số cơ quan khác: Sau khi metacercaria đã thoát vỏ tại tá tràng để di chuyển đến các cơ quan nội tạng và phát triển thành sán non, trong quá trình đó chúng có thể di trú từ khoang màng bụng đến các cơ quan khác ngoài phổi hoặc từ phổi tới các cơ quan khác và chúng có thể tạo nang và đẻ trứng tại vị trí ngoài phổi. Trứng của sán trưởng thành sống trong phổi đi vào hệ tuần hoàn và được đưa đến các vùng phía xa của cơ thể. Đồng thời, t rứng và sán chưa trưởng thành ở các vị trí lạc chỗ có thể gây phản ứng viêm, dẫn đến hình thành nang, áp-xe, u hạt.
Các giai đoạn mắc bệnh sán lá phổi
Giai đoạn sớm (Giai đoạn sớm tính từ khi nhiễm cho đến khi sán đẻ trứng đầu tiên, trung bình 2-20 ngày, có thể kéo dài đến 2 tháng).
- Trong thời gian ấu trùng di trú trong khoang phúc mạc, một số bệnh nhân thấy đau bụng hay đau thượng vị, thậm chí có thể có ỉa chảy
- Khi ấu trùng xuyên qua cơ hoành và di trú trong khoang màng phổi, có thể có đau ngực kiểu màng phổi (thường là hai bên).
- X quang phổi lúc này, khoảng sau nhiễm từ một tháng trở lên, có thể thấy tràn khí màng phổi hoặc tràn dịch màng phổi.
- Tràn dịch màng phổi là dịch tiết và dày đặc bạch cầu ái toan.
- Khi ấu trùng di trú trong nhu mô phổi tăng cao, bệnh nhân thường có biểu hiện giống như hội chứng Loeffler:
- Ho khan, đau ngực và khó chịu.
- Các triệu chứng ít gặp hơn bao gồm sốt nhẹ và đờm có dây máu.
Giai đoạn muộn (Giai đoạn thứ hai của nhiễm sán lá phổi là thời gian sán trưởng thành sống ở phổi. Giai đoạn này có thể kéo dài tới mười năm trước khi sán chết dần).
Biểu hiện lâm sàng
- Ho máu tái diễn là triệu chứng hay gặp nhất trong giai đoạn này. Điển hình thì chất đờm có màu sô-cô-la, bao gồm hỗn hợp máu, tế bào viêm và trứng sán phóng ra khi nang bao quanh sán trưởng thành vỡ vào tiểu phế quản.
- Bệnh nhân có thể khó chịu nhưng nói chung không sốt.
- Người gầy sút, kém ăn … và ho máu tái diễn các lần sau nếu không được phát hiện và điều trị
Phòng bệnh sán lá phổi
-Phát hiện và điều trị triệt để đồng thời quản lý tốt nguồn phát tán mầm bệnh từ người bệnh
-Thực hiện tốt việc đảm bảo vệ sinh trong ăn uống (ăn, uống chín), nhất là những nơi có thói quen ăn gỏi và các hải sản sống cần phải được tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân nhằm loại bỏ thói quen ăn uống không hợp vệ sinh.
Bình luận của bạn