Được gọi là phương pháp soi kính hiển vi tán xạ Raman kích thích (SRS), bản chất của công nghệ này
là chiếu các tia laser không xâm lấn vào các mô tế bào ở não và phát hiện những mô tế bào có tín
hiệu yếu.
Bằng việc phân tích quang phổ của những tín hiệu này, các nhà khoa học có thể xây dựng hình ảnh về cấu trúc của mô tế bào. Khuyếch đại những tín hiệu trên giúp các chuyên gia nhanh chóng có được câu trả lời thay vì phương pháp kỹ thuật trước đây thường phải mất hàng giờ đồng hồ hoặc nhiều ngày mới có kết quả, tạo điều kiện thuận lợi cho các phẫu thuật viên.
Các nhà khoa học trên đã áp dụng phương pháp soi kính hiển vi SRS trên chuột sống trong quá trình phẫu thuật não chuột và chứng minh được rằng phương pháp này có thể chụp hình những khối u trong các vùng của não sống, những vùng mà các mô tế bào trông có vẻ bình thường khi nhìn bằng mắt thường.
Giới chuyên gia đánh giá phương pháp soi kính hiển vi SRS có độ chính xác như phương pháp nhuộm Hematoxylin và Eosin hiện được sử dụng trong chẩn đoán u não.
Công trình này do các nhà khoa học thuộc Đại học Michigan và Harvard thực hiện và được công bố trên tạp chí Science Translational Medicine.
Bằng việc phân tích quang phổ của những tín hiệu này, các nhà khoa học có thể xây dựng hình ảnh về cấu trúc của mô tế bào. Khuyếch đại những tín hiệu trên giúp các chuyên gia nhanh chóng có được câu trả lời thay vì phương pháp kỹ thuật trước đây thường phải mất hàng giờ đồng hồ hoặc nhiều ngày mới có kết quả, tạo điều kiện thuận lợi cho các phẫu thuật viên.
Các nhà khoa học trên đã áp dụng phương pháp soi kính hiển vi SRS trên chuột sống trong quá trình phẫu thuật não chuột và chứng minh được rằng phương pháp này có thể chụp hình những khối u trong các vùng của não sống, những vùng mà các mô tế bào trông có vẻ bình thường khi nhìn bằng mắt thường.
Giới chuyên gia đánh giá phương pháp soi kính hiển vi SRS có độ chính xác như phương pháp nhuộm Hematoxylin và Eosin hiện được sử dụng trong chẩn đoán u não.
Công trình này do các nhà khoa học thuộc Đại học Michigan và Harvard thực hiện và được công bố trên tạp chí Science Translational Medicine.
Bình luận của bạn