Empty
Empty

Theo các nhà nghiên cứu, 3 năm sau đại dịch COVID-19, hệ thống chăm sóc sức khỏe của thế giới bộc lộ nhiều bất cập, bao gồm chất lượng chăm sóc y tế ở dưới mức trung bình, an toàn của người bệnh không được quan tâm cao nhất, chỉ tập trung vào chăm sóc cấp tính mà bỏ qua phòng ngừa và vấn đề sức khỏe cộng đồng, chi phí không bền vững. Trong thập kỷ tới, sẽ có sự chuyển đổi đáng kể trong việc thiết kế lại hệ thống y tế được thúc đẩy bởi khoa học kỹ thuật, trí tuệ nhân tạo bao gồm chuyển đổi từ các hệ thống dựa trên bệnh viện sang các hệ thống dựa trên chăm sóc ban đầu, cộng đồng và chăm sóc xã hội. Các nhà nghiên cứu cũng đánh giá sự phát triển trong tương lai của các hệ thống thanh toán hướng tới sức khỏe bền vững.

Empty

Mặc dù có sự khác biệt đáng kể trong thiết kế hệ thống y tế trên toàn thế giới, nhưng hầu hết các quốc gia đều phải đối mặt với những thách thức tương tự nhau.

An toàn và chất lượng điều trị không được quan tâm đúng mức. Các hệ thống y tế hiện tại thường không cung cấp dịch vụ chăm sóc tập trung vào nhu cầu và mong đợi của bệnh nhân và gia đình. Hầu hết các hệ thống không thể đo lường nhất quán các kết quả quan trọng đối với bệnh nhân, và không thể cải thiện chất lượng cuộc sống và chức năng tổng thể liên quan đến sức khỏe của họ. Hơn nữa, các hệ thống y tế hiện tại thường không thể lôi kéo bệnh nhân và gia đình của họ tham gia một cách hiệu quả vào quá trình chăm sóc hoặc cung cấp dịch vụ chăm sóc đồng cảm.

Khả năng tiếp cận công bằng với các dịch vụ y tế hiếm khi đạt được ngay cả ở những quốc gia có bảo hiểm y tế toàn dân. Đại dịch COVID-19 đã làm nổi bật những lỗ hổng về khả năng tiếp cận và bình đẳng này.

Cuối cùng, sự bền vững về kinh tế là khó nắm bắt, đặc biệt là ở các nước phát triển. Chi tiêu cho y tế trong tương lai dự kiến sẽ còn tăng hơn nữa khi các kỹ thuật và liệu pháp mới ra đời.

Những lỗ hổng này đã tồn tại trong nhiều thập kỷ, nhưng các hệ thống chăm sóc sức khỏe đã không thể cải thiện chúng và cần có sự “thiết kế” lại hệ thống này cho phù hợp với tình hình mới.

SK+ 2030 thay doi he thong CSSK-05

Thực tế, theo các nhà nghiên cứu, việc chuyển đổi này đòi hỏi cần có sự thúc đẩy mạnh mẽ, dựa trên nhiều yếu tố. Đó là:

Một là cuộc cách mạng y tế kỹ thuật số. Các nhà nghiên cứu kỳ vọng chuyển đổi kỹ thuật số sẽ thay đổi hoạt động chăm sóc sức khỏe giống như nó đã thay đổi hoạt động ngân hàng và bán lẻ. Chủ nghĩa tiêu dùng đang phát triển, khi mọi người trở nên hiểu biết và tích cực hơn trong việc chăm sóc họ. Ngành y tế sẽ cần phải lấy con người làm trung tâm, cá nhân hóa và minh bạch hơn.

Một động lực chính khác là cấu trúc chi phí trên toàn thế giới đã thay đổi, tạo ra cơ hội cho các nhà cung cấp, công ty bảo hiểm, người tiêu dùng và các nhà hoạch định chính sách.

Lực lượng lao động chăm sóc sức khỏe đang đối mặt với những thay đổi cơ bản. Các chuyên ngành mới sẽ yêu cầu các ngành nghề y tế mới. Tình trạng thiếu hụt lực lượng lao động, được thấy ở nhiều quốc gia, sẽ buộc mỗi quốc gia phải áp dụng các công nghệ mới để kéo dài lực lượng lao động hiện có.

Đại dịch COVID-19 đã mang lại sự phát triển đáng kinh ngạc về ứng dụng khoa học kỹ thuật số trong y tế và y tế từ xa – telehealth. Tuy nhiên, điều đó cũng cũng có nghĩa là doanh thu của các nhà cung cấp giảm sút và suy thoái kinh tế toàn cầu nói chung. Cả hai yếu tố có thể làm cho nó trở thành thời điểm bước ngoặt để chuyển đổi hệ thống chăm sóc sức khỏe.

Theo dự đoán, ở mỗi quốc gia phát triển, sự thay đổi đầu tiên thường đến ở những khu vực y tế tư nhân, nơi mà sự chăm sóc y tế được đề cao. Còn ở các quốc gia kém phát triển khác, sự thay đổi này sẽ xuất hiện nhiều ở những khu vực nhận được sự tài trợ của các chương trình liên kết của các tổ chức phi chính phủ, các quỹ tài trợ… Tốc độ chuyển đổi kỹ thuật số trong các tổ chức có thể bị hạn chế bởi số lượng người được đào tạo về tin học trong các tổ chức này. Mức độ mà các tổ chức chú trọng đến việc chăm sóc lấy con người làm trung tâm có thể bị chi phối bởi việc lãnh đạo có coi trọng sự cải thiện trong lĩnh vực này hay không và bởi tính sẵn có của khu vực trong việc trao đổi thông tin sức khỏe cho phép các hệ thống chịu trách nhiệm giải trình đầy đủ.

Empty
Empty

Câu chuyện của Silvio chứng minh rằng các hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện tại bị phân mảnh và việc chăm sóc không được điều phối, và có quá nhiều bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính gặp phải các biến chứng nghiêm trọng trước khi được điều trị. Một yêu cầu đặt ra là cần xây dựng một hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, có kết nối cộng đồng mạnh, dễ tiếp cận, có sự tham gia của tất cả các ngành nghề liên quan tới sức khỏe. Và hệ thống này nên chịu một số rủi ro tài chính với sức khỏe của người bệnh mà họ điều trị, để thúc đẩy họ cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe toàn diện và bền vững hơn.

Hãy cùng tìm hiểu về sự giống và khác biệt của hệ thống chăm sóc y tế truyền thống và tương lai với bảng so sánh dưới đây.

Empty

Các bệnh viện ngày nay là đơn vị chịu trách nhiệm chính trong việc chăm sóc sức khỏe, nhưng với xu thế phát triển hiện nay, trong vòng 10 năm tới, việc chăm sóc sẽ chuyển từ bệnh viện sang cộng đồng và tại nhà. Có 3 xu hướng đang đẩy nhanh sự thay đổi này. Đầu tiên, mô hình bệnh viện gia đình đang phát triển, bởi vì chúng cải thiện sức khỏe với chi phí thấp hơn và sự hài lòng của bệnh nhân cao hơn. Thứ hai, y học cá nhân hóa sẽ ngày càng cải thiện khả năng dự đoán và ngăn ngừa biến chứng cấp tính của bệnh mạn tính, do đó giúp giảm nguy cơ nhập viện tốt hơn. Và thứ ba, những tiến bộ trong lĩnh vực y tế kỹ thuật số sẽ cho phép các bác sỹ cung cấp dịch vụ chăm sóc tại nhà ở cấp độ bệnh viện thông qua điều trị từ xa. Đại dịch COVID-19 đã đẩy nhanh xu hướng này một cách đáng kể.

Việc chuyển giao sẽ rất khó khăn, đặc biệt là đối với các trung tâm y tế, nơi tập trung vào chăm sóc và hiện đang là trụ cột của nhiều hệ thống chăm sóc sức khỏe lớn nhất và có ảnh hưởng nhất của chúng ta.

Nếu các hệ thống chăm sóc sức khỏe muốn phát triển, chúng cần phải thay đổi phương thức hoạt động và lãnh đạo, tách khỏi các bệnh viện. Các công nghệ mới như điều hướng phẫu thuật và tư vấn từ xa sẽ cho phép chuyển các hoạt động như phẫu thuật từ bệnh viện sang các trung tâm phẫu thuật cộng đồng và sự thay đổi này có thể được đẩy nhanh bằng những thay đổi trong hoàn trả chi phí. Tương tự như vậy, các dịch vụ y tế từ xa sẽ cho phép các bác sỹ lâm sàng cung cấp các chương trình quản lý bệnh mạn tính không cố định ở bệnh viện hoặc phòng khám.

Chủ nghĩa tiêu dùng đang phát triển, khi mọi người trở nên hiểu biết và tích cực hơn trong việc chăm sóc họ. Ngành y tế sẽ cần phải lấy con người làm trung tâm, cá nhân hóa và minh bạch hơn. Nếu chúng ta muốn duy trì sức khỏe và ngăn ngừa bệnh tật, chúng ta phải tập trung vào sức khỏe, dự đoán và ngăn ngừa bệnh mạn tính. Những người không phải là MD, chẳng hạn như y tá, cố vấn di truyền, huấn luyện viên sức khỏe… sẽ là trung tâm của sự thay đổi này. Theo các thỏa thuận chăm sóc có trách nhiệm, các nhà cung cấp cũng phải giải quyết các yếu tố xã hội quyết định sức khỏe, bao gồm tình trạng kinh tế xã hội, giáo dục, môi trường, việc làm và mạng lưới hỗ trợ xã hội. Các nhà cung cấp và người trả tiền phải mở rộng phạm vi tiếp cận cộng đồng và liên kết chăm sóc sức khỏe với chăm sóc xã hội.

Cuối cùng, các hệ thống y tế trong tương lai cần phải là các hệ thống học tập, đó là y học dựa trên bằng chứng, được điều chỉnh để cải tiến và đổi mới liên tục, với các phương pháp thực hành tốt nhất được lồng ghép liền mạch trong hệ thống y tế.

Các hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện tại thực hiện đổi mới theo kiểu tuyến tính - từ phòng thí nghiệm đến thử nghiệm lâm sàng đến thực hành lâm sàng. Tuy nhiên, chúng thường không mang lại kết quả cải thiện, ngay cả đối với những đổi mới đã thành công trong phòng thí nghiệm hoặc thử nghiệm. Các hệ thống y tế đại diện cho các hệ thống động phức tạp và các chiến lược triển khai cần phải thích ứng dựa trên sự thay đổi hiện tại cũng như các đặc điểm của hệ thống.

Empty

Như đã đề cập trước đây, các hệ thống thanh toán sẽ cần thay đổi để sản phẩm thực sự là sức khỏe toàn diện, thay vì các giao dịch chăm sóc. Các hệ thống thanh toán dựa trên giá trị, chẳng hạn như các tổ chức chăm sóc có trách nhiệm, khuyến khích các nhà cung cấp dịch vụ y tế giảm lãng phí và ngăn ngừa các biến chứng. Bằng chứng ban đầu cho thấy rằng các mô hình thanh toán dựa trên giá trị thực sự có thể làm giảm chi tiêu cho mỗi người thụ hưởng.

Khi các hệ thống chuyển đổi sang các mô hình thanh toán dựa trên giá trị, nhà cung cấp sẽ không còn được hưởng lợi về mặt tài chính từ việc gia tăng các dịch vụ, thay vào đó sẽ học cách tập trung vào việc cải thiện dịch vụ chăm sóc (ngăn ngừa các biến chứng và tái nhập viện), và cuối cùng là mang lại kết quả tốt nhất cho bệnh nhân. Ưu đãi sẽ phát triển trong giai đoạn chuyển tiếp. Ví dụ: một nhà cung cấp thực hiện thay khớp ban đầu có thể nhận được khoản hoàn trả cao hơn dựa trên việc ngăn ngừa nhiễm trùng liên quan đến phẫu thuật, nhưng theo thời gian, các khoản thanh toán cũng sẽ gắn liền với thành công cuối cùng của quy trình, được đo bằng tình trạng hoạt động chức năng và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Để tập trung vào những kết quả quan trọng nhất đối với bệnh nhân và gia đình, chúng ta phải có khả năng đo lường những kết quả đó. Các thiết bị theo dõi bệnh nhân (chẳng hạn như công nghệ cảm biến) sẽ cho phép đo lường trạng thái chức năng và trạng thái tinh thần chính xác hơn hiện tại.

Thanh toán dựa trên giá trị sẽ mở rộng trách nhiệm của các tổ chức y tế bên ngoài bệnh viện và phòng khám cũng như trong cộng đồng và gia đình. Việc mở rộng này sẽ xác định lại các tổ chức chăm sóc sức khỏe.

Với quá trình chuyển đổi sang các mô hình thanh toán mới khuyến khích giá trị thay vì khối lượng, thị trường sẽ yêu cầu các giải pháp hiệu quả hơn về chi phí - mang lại chất lượng như nhau nhưng với chi phí thấp hơn. Ví dụ, các theo dõi đơn giản sẽ được tập trung về các trung tâm chăm sóc cơ sở, người bệnh cũng có thể có được tư vấn khi cần mà không nhất thiết phải tới bệnh viện. Những đổi mới đột phá như vậy quá khan hiếm trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe hiện nay. Khi các quy tắc thị trường thay đổi, bản chất của sự đổi mới cũng vậy.

Empty

Hệ thống chăm sóc sức khỏe của chúng ta phải đạt được sự bền vững. Chi phí chăm sóc y tế đã gia tăng trong những năm qua các nước phát triển, một phần là do các công nghệ và phương pháp điều trị mới làm tăng chi phí. Tuy nhiên, không có lý do nội tại nào giải thích tại sao đổi mới không thể giảm chi phí, nếu chúng ta tập trung năng lượng của mình theo hướng đó.

Đầu tiên, chúng ta phải đầu tư vào công tác phòng ngừa, thường mang lại hiệu quả cao về chi phí so với điều trị nhưng lại ít được chú ý trong hầu hết các hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện nay. Phòng ngừa phải bắt đầu từ chăm sóc ban đầu và chính bệnh nhân. Cổng thông tin bệnh nhân - hồ sơ sức khỏe điện tử - có thể đưa ra hướng dẫn về quản lý cân nặng, hoạt động thể chất, ăn uống lành mạnh, không hút thuốc và không uống rượu quá mức, mặc dù tất cả những điều này cuối cùng phải do bệnh nhân quản lý, với những động thái thúc đẩy có chọn lọc và huấn luyện để vượt qua khó khăn.

Trí tuệ nhân tạo (A.I) và công nghệ có thể giới thiệu các công cụ ra quyết định tốt hơn. Trong các hệ thống lâm sàng, chúng có thể giúp các chuyên gia y tế xác định mức độ chăm sóc mà bệnh nhân cần và bệnh nhân nào sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ liệu pháp điều trị bằng thuốc mới đắt tiền nào. Về mặt hành chính, chúng có thể giúp các bác sỹ hay một đơn vị lâm sàng cụ thể đưa ra lựa chọn tốt nhất cho bệnh nhân.

Empty

Trong 50 năm qua, chúng ta đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể số lượng bác sỹ, sự biến đổi phân mảng giữa các chuyên khoa và chuyên khoa phụ, như bác sỹ phẫu thuật, bác sỹ lâm sàng... Chúng ta đã chứng kiến các bác sỹ đảm nhiệm chăm sóc bệnh nhân nội trú. Và chúng ta sẽ chứng kiến vai trò mới của các bác sỹ khi phải đảm nhiệm việc lập tài liệu hồ sơ sức khỏe điện tử.

Nhiều thập kỷ trước, một y tá là một y tá. Ngày nay, các y tá được chuyên môn hóa đến mức một y tá từ khoa sức khỏe tâm thần khó có thể chăm sóc cho khoa ngoại. Điều này cần thay đổi. Trong thập kỷ tới, nếu tình trạng thiếu bác sỹ xảy ra ở một số khu vực, y tá có thể đảm nhận nhiều trách nhiệm mà bác sỹ hiện đang đảm nhiệm để đảm bảo rằng các yêu cầu chăm sóc và điều trị có thể được đáp ứng một cách hiệu quả.

Vai trò của dược sỹ ngày càng mở rộng. Họ quản lý các phòng khám hóa trị và điều chỉnh thuốc cho bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính.

Làm việc theo nhóm sẽ càng trở nên cần thiết hơn để đảm bảo kết quả tối ưu từ một kế hoạch chăm sóc. Các bác sỹ lâm sàng sẽ cần phải làm việc cùng nhau, thay vì tập trung vào những gì đã từng là “lãnh thổ truyền thống” của họ.

Công nghệ sẽ tiếp quản một số phần của bệnh viện truyền thống. Ví dụ, trí tuệ nhân tạo sẽ giúp các bác sỹ X-quang làm việc hiệu quả và chính xác hơn, với kết quả có thể là cần ít bác sỹ X-quang hơn. Sự biến đổi tương tự sẽ có khả năng xảy ra trong bệnh lý học. Theo thời gian, với sự trợ giúp của A.I, những chuyên khoa này có thể phát triển để trở thành một chuyên khoa y tế mới - bác sỹ chẩn đoán y khoa. Ngoài ra còn có sự dư thừa lớn trong chăm sóc ung thư - hầu hết bệnh nhân có thể sẽ không cần gặp bác sỹ điều trị ung thư, bác sỹ phẫu thuật ung thư và bác sỹ xạ trị ung thư như thường xảy ra ngày nay. A.I và những tiến bộ trong y học chính xác sẽ thúc đẩy hiệu quả thông qua hợp nhất và thay đổi vai trò chuyên môn.

Empty

Dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại các quốc gia công nghiệp hóa dựa trên các địa điểm chăm sóc được xây dựng có mục đích, do các chuyên gia giàu kinh nghiệm phụ trách, theo các tiêu chuẩn và mô hình thanh toán được quản lý chặt chẽ. Sự tăng trưởng gần đây trong các mô hình dựa trên người tiêu dùng, ưu tiên kỹ thuật số, định hướng bán lẻ và tập trung vào sức khỏe/sức khỏe đã thúc đẩy những người tham gia phi truyền thống tham gia vào lĩnh vực này.

Ví dụ, các công ty công nghệ lớn như Apple, Google và Microsoft đang tích cực phát triển các sản phẩm và công nghệ để phục vụ các hệ thống và dịch vụ y tế. Các cửa hàng như BestBuy và Walmart đang phát triển các cơ hội thuận tiện, chi phí thấp cho việc tiêu dùng và giao hàng chăm sóc sức khỏe. Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe phụ trợ như vận chuyển y tế, chuỗi cung ứng và mua lại bệnh nhân đại diện cho các cơ hội kinh doanh sinh lợi cho các công ty như Uber, Amazon và Salesforce.

Trong khi ở nhiều quốc gia, dịch vụ chăm sóc ban đầu được coi là nền tảng của hệ thống chăm sóc sức khỏe, thì tại nhiều quốc gia khác, những khoảng trống về tính sẵn có của các dịch vụ này đã tạo điều kiện cho các công ty tư nhân tham gia thị trường. Các siêu trung tâm sức khỏe tiện lợi của Walmart, với chiến lược định giá bằng tiền mặt với 40USD cho các lần khám chăm sóc và 25USD cho khám răng, không chỉ qua mặt các công ty bảo hiểm mà còn giảm chi phí hành chính và thể hiện khả năng mở rộng đáng kinh ngạc. Walmart điều hành 3.600 cửa hàng ở Mỹ với 195 triệu người mua sắm hàng tuần. Nhiều cửa hàng Walmart ở các vùng nông thôn, nơi ít cạnh tranh về hệ thống y tế. CVS đang mở 1.500 HealthHUB và Walgreens hợp tác với VillageMD để mở hơn 500 phòng khám chăm sóc. Các tùy chọn này mang đến cho người tiêu dùng sự tiện lợi, minh bạch về giá và trải nghiệm bệnh nhân tương đối tốt.

Các hệ thống y tế truyền thống đang bị đẩy sang một bên. Có không ít bệnh nhân đang tìm kiếm sự chăm sóc tại các phòng khám tư nhân khi cần thiết. Một số hệ thống y tế đang cải thiện các dịch vụ, tập trung vào trải nghiệm của bệnh nhân, dịch vụ chăm sóc ảo và các ứng dụng minh bạch về giá, trong khi những hệ thống khác đang tìm cách hợp tác với các thực thể đang cản trở họ, để duy trì giới thiệu cho các dịch vụ chuyên khoa tuyến dưới.

Vẫn còn phải xem xét xem những mô hình cung cấp dịch vụ chăm sóc ngoài bệnh viện như thế nào và quan trọng hơn là cách họ sẽ hỗ trợ hoặc cản trở nỗ lực đạt được mục tiêu ba là chất lượng, khả năng tiếp cận và khả năng chi trả cho người tiêu dùng dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Chúng ta nên lưu ý rằng có những cơ hội mới cho lực lượng lao động chăm sóc sức khỏe trong mô hình này: các nhà cung cấp cấp trung, huấn luyện viên sức khỏe và người điều hướng chăm sóc có thể cung cấp dịch vụ chăm sóc tương đương hoặc thậm chí cao hơn so với các địa điểm trước đây của họ. Ví dụ, một chương trình quản lý tăng huyết áp ảo được điều hành bởi những người điều hướng chăm sóc (dược sỹ và y tá) đã giúp huyết áp được kiểm soát tốt hơn ở 87% bệnh nhân hoàn thành chương trình trong 6 tuần; huyết áp giảm trung bình 34 mmHg/12 mmHg.

Empty
Empty
Empty
Mời quý vị độc giả đọc tin hàng ngày về chủ đề sức khỏe tại suckhoecong.vn trong chuyên mục Góc nhìn quản lý