Đục thuỷ tinh thể có thể chữa được bằng thuốc nhỏ mắt
Những lưu ý khi phẫu thuật thay thủy tinh thể
Khi nào cần phẫu thuật đục thuỷ tinh thể?
Trẻ em cũng bị đục thủy tinh thể
Ngừa đục thủy tinh thể, thoái hóa điểm vàng bằng thực phẩm
Nếu được phép dùng cho người, đây sẽ là biện pháp điều trị không xâm lấn cho những người bị đục thủy tinh thể mức độ vừa.
Các nhà khoa học lần đầu tiên biết về khả năng ngăn chặn đục thủy tinh thể của lanosterol qua quan sát trên hai em bé ở Trung Quốc bị đục thủy tinh thể bẩm sinh. Khi kiểm tra kỹ hơn, các bác sỹ phát hiện ra rằng hai bệnh nhi này có chung một đột biến ngăn cản cơ thể sản sinh lanosterol. Cha mẹ hai em đều không có đột biến này và do đó không bị đục thủy tinh thể. Từ quan sát này, nhóm nghiên cứu phỏng đoán lanosterol chắc phải đóng một vai trò nào đó trong sự hình thành đục thủy tinh thể.
Trong một loạt các thí nghiệm, nhóm nghiên cứu đã thử lanosterol trên thủy tinh thể hiến tặng của người, thỏ và chó còn sống. Các kết quả đều cho thấy lanosterol có thể làm kích thước của đục thủy tinh thể thu nhỏ lại rõ rệt.
Đục thủy tinh thể xảy ra khi protein trong thủy tinh thể tích tụ và ngăn không cho ánh sáng đi qua. Mặc dù bệnh có thể do di truyền - như trong trường hợp hai em bé ở Trung Quốc, nhưng thường gặp hơn là do tuổi già. Theo Trung tâm phòng chống bệnh dịch Mỹ (CDC), đục thủy tinh thể là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa trên thế giới. Hiện nay, cách điều trị duy nhất cho đục thủy tinh thể là phẫu thuật lấy bỏ thủy tinh thể đục khỏi mắt và thay bằng thủy tinh thể nhân tạo.
Mặc dù chưa hoàn toàn rõ lanosterol hoạt động như thế nào, song các nhà nghiên cứu tin rằng steroid này ngăn không để proteins tích tụ lại. Theo Tech Times, nếu thuốc nhỏ mắt cũng được chứng minh là có tác dụng trên người, đây có thể là cách điều trị không xâm lấn cho những người bị đục thủy tinh thể nhẹ và vừa và là một biện pháp để ngăn ngừa bệnh tái phát. Tuy mổ đục thủy thể thể là phẫu thuật khá đơn giản và an toàn, song thuốc nhỏ mắt sẽ là cách thay thế dễ dàng hơn cho 50 triệu người Mỹ ước tĩnh sẽ bị căn bệnh này vào năm 2050.
Mặ dù chưa được thử trên người, song nghiên cứu đã nhận được nhiều sự quan tâm. Jonathan King, một chuyên gia sinh học phân tử của MIT cho biết đây là nghiên cứu mạnh nhất thuộc loại này mà ông được biết trong hàng chục năm qua.
"Họ đã phát hiện ra một hiện tượng và sau đó - bằng tất cả những thí nghiệm có thể làm được – đã tìm ra được sự phù hợp về mặt sinh học,” ông giải thích.
Bình luận của bạn