Hai kíp phẫu thuật của Bệnh viện Từ Dũ và Bệnh viện Nhi đồng 1 (TP.HCM) thực hiện thông van tim bào thai bị dị tật tim bẩm sinh nặng
Quảng Ninh: Bé gái mới 5 tuổi đã bị hội chứng thận hư
Người bệnh đái tháo đường bị gan nhiễm mỡ, máu nhiễm mỡ phải làm sao?
Nghiên cứu cảnh báo nguy cơ khi uống acetaminophen trong thai kỳ
Vì sao bà bầu tuyệt đối không nên hút thuốc lá?
Tình hình can thiệp tim trong bào thai trên thế giới
Hẹp van động mạch phổi với vách liên thất kín (PA-IVS) là một dị tật tim bẩm sinh xảy ra do sự thông thương phân chia giữa tâm thất phải (RV) và tuần hoàn động mạch phổi. PA-IVS có tỷ lệ rất hiếm 0,042-0,053 trên 1000 ca sinh sống. Bệnh có thể được chẩn đoán khi khám siêu âm sản khoa định kỳ. Kích thước tim thai thường trong giới hạn bình thường.
Nhiều tổ chức đã công bố các báo cáo loạt ca nhỏ với mức độ thành công khác nhau đối với can thiệp tim mạch bào thai (FCI) cho PA/IVS - hẹp van ĐM phổi với vách liên thất kín. Trong đó, Cơ quan đăng ký can thiệp tim thai nhi quốc tế (IFCIR) năm 2015 đã công bố dữ liệu từ nhiều tổ chức cung cấp FCI cho PA/IVS. Trong số 30 bệnh nhân được theo dõi, 16 bệnh nhân đã trải qua FCI với 11 thủ thuật thành công, 3 bệnh nhân không thành công về mặt kỹ thuật và 2 bệnh nhân không được báo cáo. Có 3 trường hợp tử vong liên quan đến thủ thuật và 1 trường hợp thai chết lưu muộn ở nhóm FCI thành công về mặt kỹ thuật (11 trường hợp). Có 1 trường hợp thai chết lưu liên quan đến thủ thuật trong nhóm 3 trường hợp không thành công về mặt kỹ thuật. Trong số những bệnh nhân không trải qua FCI (n = 14), cuối cùng 8 trong số 14 trẻ được sinh ra sống. Trong đoàn hệ không có FCI và FCI không thành công, 4/10 (40%) bệnh nhân có được sửa chữa 2 thất thành công, 2/10 có sửa chữa 1 thất và 4/10 tử vong trước khi xuất viện. Trong nhóm FCI thành công về mặt kỹ thuật, trong số trẻ sinh sống, 5/7 (70%) phẫu thuật 2 thất thành công, 2/7 tử vong trước khi xuất viện.
Nhóm tại Trung tâm Tim Bệnh viện Nhi ở Linz (Áo) đã công bố một đoàn hệ can thiệp bào thai lớn tại một trung tâm duy nhất vào năm 2018. Họ đã báo cáo 35 FCI trên 25 cặp mẹ - thai bị PA/IVS (n = 15) hoặc hẹp van phổi nghiêm trọng. Họ báo cáo FCI thành công hoặc thành công một phần ở 21/23 cặp mẹ - thai. Trong nhóm can thiệp thành công, 15 trường hợp có kết quả can thiệp 2 thất thành công (70%), 3 trường hợp được đưa về 1.5 thất và 3 trường hợp có kết quả không xác định. Không có bệnh nhân nào thực hiện FCI thành công có kết quả tim 1 thất sau sinh.
Một báo cáo năm 2009 được thực hiện tại Bệnh viện Nhi Boston (Mỹ) mô tả kinh nghiệm về 10 trường hợp thai kỳ được thực hiện FCI. 4 trường hợp đầu tiên không thành công về mặt kỹ thuật và 6 trường hợp sau đã thành công. So với nhóm chứng (n = 15) mắc PA/IVS không trải qua can thiệp trước sinh và có kết quả một thất sau khi sinh, vòng van ba lá, chiều dài tâm thất phải và vòng van động mạch phổi tăng đáng kể hơn từ giai đoạn 3 tháng giữa đến giai đoạn 3 tháng cuối của thai kỳ. 6 thai nhi đã được can thiệp thành công. 9 trường hợp sinh sống sau can thiệp, 1 trường hợp chấm dứt thai kỳ sau FCI thất bại. Tất cả 9 trẻ sau can thiệp đều cần can thiệp sau sinh. Trong số 6 FCI thành công, 5 trường hợp có kết quả can thiệp 2 thất thành công (83%) và 1 trường hợp tim 1 thất. Trong số 4 thủ thuật không thành công về mặt kỹ thuật, một gia đình đã lựa chọn chấm dứt thai kỳ, hai bệnh 2 trường hợp được đưa về tim 1 thất và điều trị giảm nhẹ và một bệnh nhân có tuần hoàn không xác định. Vì vậy trong nhóm 10 cặp mẹ - thai này, hầu hết các bệnh nhân được can thiệp FCI thành công đều có kết quả can thiệp 2 thất sau sinh thành công như mong muốn.
Can thiệp tim trong bào thai tại Bệnh viện Từ Dũ
Sản phụ L., sinh năm 1996, lần đầu mang thai và được theo dõi thai kỳ tại Đà Nẵng. Sản phụ được chuyển đến Bệnh viện Từ Dũ khi phát hiện thai có bất thường về tim: Không lỗ van động mạch phổi với vách liên thất kín diễn tiến thiểu sản thất phải và được tư vấn tái khám định kỳ tại bệnh viện. Tuy nhiên, trong quá trình khám thai và theo dõi tại Bệnh viện Từ Dũ, bất thường về tim thai ngày càng tiến triển nặng hơn.
Bệnh viện Từ Dũ đã tổ chức hội chẩn liên viện khẩn với Bệnh viện Nhi Đồng 1 vào sáng ngày 3/1/2024 (thai được 32 tuần 5 ngày) và kết luận nếu không can thiệp bào thai để nong van động mạch phổi ngay thì khả năng cao thai sẽ mất trong bụng mẹ; Đồng thời không thể chấm dứt thai kì thời điểm này để sửa chữa tim sau sinh vì khả năng cao thai sẽ mất sau sinh do non tháng kèm bệnh tim nặng. Do đó, can thiệp trong bào thai bán khẩn trong trường hợp này là thiết yếu và cấp bách nhằm cứu sống thai nhi còn trong bụng mẹ. Sau khi tư vấn đầy đủ và được sự đồng thuận của gia đình, Bệnh viện Từ Dũ và Bệnh viện Nhi đồng 1 cùng phối hợp thực hiện kỹ thuật can thiệp bào thai này.
Sáng ngày 4/1/2024, Ban Giám đốc và kíp phẫu thuật của Bệnh viện Từ Dũ phối hợp cùng Bệnh viện Nhi đồng 1 đã cùng thảo luận rà soát lại một lần nữa các phương án thực hiện kỹ thuật này trước khi triển khai.
9h05, ngày 4/1/2024, kíp phẫu thuật cả 2 bệnh viện tiến hành can thiệp tim thai trong bào thai: Kim 18G vào được buồng thất phải của thai, luồn Guidewire 0.014” vào thất phải, qua van động mạch phổi lên thân động mạch phổi; Tiếp theo đưa Balloon Saphire 2.5 x 15 mm vào vị trí van động mạch phổi, bơm bóng với áp lực 14 bar x 2 lần. Sau can thiệp siêu âm kiểm tra tim thai lại thấy dòng chảy qua van động mạch phổi tốt, không tràn dịch màng ngoài tim.
Hai kíp phẫu thuật của cả hai bệnh viện đã cân não, nỗ lực hết sức đảm bảo chính xác tuyệt đối, hạn chế tối đa sự cố có thể xảy ra. Và cuối cùng, phẫu thuật đã thành công như mong đợi. Quá trình theo dõi thai kỳ sắp tới sẽ là sự tiếp tục phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng của cả hai bệnh viện nhằm mục tiêu đem đến niềm hạnh phúc cho cả gia đình khi cả sản phụ và thai nhi có một thai kỳ khỏe mạnh, mẹ tròn con vuông.
Bình luận của bạn