Thực hành tốt sản xuất TPCN là tiêu chí vàng để đánh giá chất lượng nhà sản xuất
Nấu “món” thực phẩm chức năng: Cần "đầu bếp" GMP-HS
“Để bên thứ ba đánh giá, chứng nhận GMP-HS là tiến bộ”
GMP-HS: Thách thức không chỉ của doanh nghiệp Việt!
Sản xuất TPCN đạt chuẩn GMP: Con người là cốt lõi
Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp sản xuất thực phẩm chức năng nào cũng hiểu được điều đó. Bởi vậy, dù Hiệp hội TPCN Việt Nam đã ban hành hướng dẫn Thực hành tốt sản xuất thực phẩm chức năng (GMP-HS) đến nay đã được 6 năm, số cơ sở sản xuất TPCN được cấp chứng nhận GMP-HS mới chỉ... đếm trên đầu ngón tay.
Theo PGS.TS Trần Đáng, dưới đây là 6 lý do để áp dụng GMP trong thực phẩm chức năng:
1. GMP là công cụ để bảo đảm sản xuất TPCN an toàn
GMP thực sự là một công cụ có hiệu quả để bảo đảm an toàn thực phẩm (ATTP), có khả năng ngăn ngừa một cách chủ động nguy cơ ô nhiễm thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến, tạo ra các sản phẩm an toàn cho người sử dụng. GMP là quy phạm sản xuất, tức là các biện pháp, thao tác thực hành cần tuân thủ ở từng công đoạn hoặc một phần công đoạn cho từng sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm, từ khâu tiếp nhận nguyên liệu cho đến thành phẩm cuối cùng.
- Chuyển từ kiểm tra thành phẩm sang kiểm soát quá trình. Cũng giống như việc kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân và trước khi mang thai, cha mẹ có khỏe mạnh thì mới sinh ra được những đứa con khỏe mạnh, không mắc bệnh di truyền. Sản phẩm TPCN muốn tốt thì phải chuẩn hóa từ khâu lựa chọn nguyên liệu, sản xuất...
- Chuyển từ kiểm tra các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm sang kiểm soát các yếu tố tác động tới chất lượng trong quá trình sản xuất.
- Chuyển từ loại bỏ thụ động các sản phẩm sai lỗi sang phòng ngừa chủ động và toàn diện các nguy cơ gây sai lỗi.
- Chuyển từ kiểm tra độc lập sang công nhận, thừa nhận lẫn nhau.
Tuân thủ GMP trong thực phẩm chức năng là xu thế của toàn thế giới
Các nước gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cũng như tham gia các tổ chức, Hiệp định, Liên minh quốc tế (ví dụ TPP - Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương) đều phải chấp nhận sự hài hòa các quy định pháp luật cũng như hài hòa các tiêu chuẩn.
Trong Luật TPCN và Giáo dục DSHEA 1994 (Dietary Supplement Health and Education Act of 1994) của Mỹ - một trong những "ông lớn" trong ngành TPCN nhấn mạnh rằng: “Supplements must be in Compliance with Current Good Manufacturing Practices”, nghĩa là TPCN phải tuân thủ GMP hiện tại. Luật TPCN của Hàn Quốc cũng khẳng định rằng: Thiết lập tiêu chuẩn GMP và áp dụng cho sản xuất TPCN. Các nước khác như Canada, Nhật Bản, Trung Quốc, Australia, Thái Lan, Malaysia, EU … đều quy định áp dụng bắt buộc áp dụng GMP cho sản xuất TPCN và TPCN muốn nhập khẩu phải có chứng nhận GMP.
Điều đó chứng tỏ tuân thủ GMP là yêu cầu của toàn nhân loại.
Hoạt động sản xuất TPCN ở Việt Nam đang bùng nổ mất kiểm soát. Bằng chứng là trong năm 2000, nước ta mới chỉ có 13 cơ sở sản xuất với 63 sản phẩm TPCN. Năm 2013, số cơ sở sản xuất đã tăng lên 3.512 với 6.851 sản phẩm TPCN. Vậy mà đến năm nay, Bộ Y tế vẫn chưa ban hành được một tiêu chuẩn nào về TPCN. Các văn bản quản lý chưa đầy đủ và còn quá nhiều khiếm khuyết. PGS.TS Trần Đáng lấy ví dụ:
- Quy định về điều kiện sản xuất, kinh doanh TPCN được ghi trong Điều 14/Thông tư 43/2014/TT-BYT ngày 24/11/2014 Quy định về quản lý TPCN: “Thực hiện theo quy định tại Điều 3 Thông tư số 16/2012/TT-BYT ngày 22/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Y tế”.
- Điều 3/Thông tư 16/2012/TT-BYT ngày 22/10/2012 lại ghi: “Đối với cơ sở vật chất, trang thiết bị dụng cụ và người trực tiếp sản xuất TPCN, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm phải tuân thủ theo các yêu cầu quy định tại các điều 1,2,3, Thông tư số 15/TT-BYT ngày 12/9/2012 của Bộ Y tế”.
- Điều 1,2,3 Thông tư số 15/2012/TT-BYT ngày 12/9/2012 của Bộ Y tế là: “Điều kiện chung bảo đảm ATTP đối với cơ sở sản xuất thực phẩm, trong đó:
PGS.TS Trần Đáng cho rằng đây là những yêu cầu rất chung chung cho thực phẩm thường như cơ sở sản xuất nước đóng chai, cơ sở làm bánh trung thu, cơ sở thức ăn đường phố, cơ sở chế biến thịt lợn... với các yêu cầu rất đơn giản, từ nhà xưởng, trang thiết bị dụng cụ cho đến con người. Liệu rằng với những điều kiện như vậy có thể sản xuất ra các sản phẩm an toàn, hiệu quả?
Thêm vào đó, nguy cơ mất an toàn về sản xuất TPCN trong nước đang bộc lộ rất trầm trọng: Thiếu quy định phù hợp về điều kiện nguồn nguyên liệu (GAP), điều kiện để sản phẩm được lưu hành, quy định về thành phần được phép sử dụng/thành phần cấm cũng như quy định đánh giá tính chất lượng, tính an toàn, tính hiệu quả.... Thực trạng này cho thấy GMP là cần thiết và thực sự cấp bách lúc này.
Ảnh chụp tại nhà máy sản xuất thực phẩm chức năng theo nguyên tắc GMP-HS của Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Âu Cơ
GMP TPCN còn là công cụ để:
- Sàng lọc, loại bỏ các cơ sở sản xuất TPCN không đủ điều kiện.
- Giảm thiểu hàng giả, hàng lậu, hàng kém chất lượng.
- Xây dựng ngành TPCN ở Việt Nam thành một ngành kinh tế - y tế, phát triển bền vững, lành mạnh vì sức khỏe của người tiêu dùng.
GMP TPCN là quy phạm sản xuất, là các biện pháp, thao tác thực hành cần tuân thủ để kiểm soát tất cả các yêu tố liên quan đến chất lượng vệ sinh ATTP của sản phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến từ khâu tiếp nhận nguyên liệu đến sản phẩm cuối cùng. Với đặc điểm công nghệ và quy trình sản xuất TPCN không thể chỉ kiểm soát các điểm trọng yếu (CCP) như kiểm soát sản xuất thực phẩm thường (Conventional Food) mà là kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất.
Bình luận của bạn