Can thiệp khi chán ăn và háu ăn

Các rối loạn này có thể tạm chia thành hai nhóm lớn là chán ăn (biếng ăn) và háu ăn (ăn vô độ). Việc không cung cấp đủ hoặc cung cấp quá mức năng lượng cho cơ thể là nguyên nhân dẫn đến các bệnh lý do rối loạn dinh dưỡng và càng ảnh hưởng nhiều hơn đến tâm lý, tinh thần của người bệnh.

Chứng chán ăn


Chứng biếng ăn thường gặp ở tuổi nhỏ

Các hình thức của chán ăn có thể là ăn số lượng ít, kén ăn (chỉ ăn một số món), không muốn ăn, cảm giác ngán thức ăn, dễ nôn ói, trẻ em thì ngậm, không chịu nhai, nuốt. Nếu mức độ biếng ăn nhẹ và tạm thời do cơ thể bị nhiễm trùng, do trẻ bị ép ăn "bạo lực" dẫn đến biếng ăn tâm lý, những giai đoạn biếng ăn sinh lý trong 1 - 2 tuần khi trẻ mọc răng, học bò, học đi...; trẻ bị thiếu máu do thiếu sắt, thiếu kẽm, thiếu Vitamin A... do chế độ ăn không phù hợp; người lớn bị căng thẳng (stress)... thì có thể gọi là biếng ăn "bình thường".

Hoặc ở những trẻ béo phì, gia đình có di truyền khả năng ăn dễ, cha mẹ béo phì thì đứa con cũng háu ăn và béo phì là những trường hợp háu ăn "bình thường". Những rối loạn ăn uống rất "bất thường" có thể gặp ở trẻ lớn và người lớn (thường là giới nữ) là chứng chán ăn tâm thần, ăn rồi tự móc ói, ăn vô độ là những biểu hiện nặng do rối loạn tâm thần ảnh hưởng nặng nề đến thể chất và có thể tử vong vì kiệt sức, suy dinh dưỡng, hoặc dẫn đến bệnh béo phì, bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp và bệnh tim mạch.

Rối loạn ăn uống nặng để lại các hậu quả thể chất nghiêm trọng:
- Tai hại cho thận.
- Nhiễm trùng đường tiểu và làm hại đến ruột già.
- Mất nước, táo bón, tiêu chảy.
- Động kinh, co giật bắp thịt hay chuột rút.
- Chứng ăn không tiêu kinh niên.
- Mất kinh hoặc kinh nguyệt thất thường.
- Suy yếu hầu hết các bộ phận cơ thể.

Các rối loạn ăn uống ảnh hưởng lớn đến phái nữ độ tuổi từ 12 - 35, nhưng các nhóm khác cũng cho thấy nguy cơ đang tăng dần. Rối loạn ăn uống tác động đến tất cả các nước và chủng tộc, không một nhóm người nào được loại trừ. Thanh niên và thiếu niên, theo các số liệu thống kê được cho là có nguy cơ cao mắc bệnh này, do các phương tiện truyền thông đã đưa ra các tiêu chuẩn hình mẫu "gầy mới đẹp".

Theo ước tính, trong suốt cuộc đời, một phụ nữ Hoa Kỳ có từ 5 - 7% khả năng rối loạn ăn uống do tâm thần. Đối với trẻ mắc bệnh này thì phần lớn rơi vào độ tuổi từ 10 - 20. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, 80% các em không hài lòng về ngoại hình và trọng lượng cơ thể và nhiều trẻ em gái sẵn sàng cho việc ăn kiêng. Căng thẳng tâm lý cũng là nguyên nhân làm phát triển bệnh. Người bệnh có nhận thức sai lệch về hình dáng cơ thể, thường cho rằng mình quá béo trong khi thực tế là thiếu cân.

Nhiều hậu quả của chứng chán ăn tâm thần liên quan đến việc suy dinh dưỡng, gồm có:

- Có trọng lượng thấp một cách bất thường (ít hơn 85% so với tuổi và chiều cao, hoặc có BMI <= 17,5).
- Mất kinh (mất kinh được định nghĩa là không có kinh trong ba chu kỳ kinh nguyệt liên tiếp) đối với phái nữ.
- Có nỗi sợ hãi để lấy lại trọng lượng cơ thể bình thường hoặc trở nên béo và có mối bận tâm quá mức đến trọng lượng cơ thể và ngoại hình.
- Cực kỳ nhạy cảm với thời tiết lạnh.
- Không có khả năng tập trung và suy nghĩ hợp lý.

Chứng ăn vô độ

Chứng ăn vô độ tâm thần là một kiểu hành vi chu kỳ với đặc điểm là có giai đoạn ăn thái quá rồi mất kiểm soát: Tái diễn các cơn ăn vô độ, trong một khoảng thời gian ngắn (1 - 2 giờ), người bệnh ăn một lượng thực phẩm quá nhiều, không thể ngừng ăn hoặc không thể kiểm soát mình ăn gì và ăn bao nhiêu. Người bệnh có những hành vi bù trừ không thích hợp như kích thích ói, lạm dụng chất nhuận trường, thuốc lợi tiểu, thụt tháo hoặc các loại thuốc khác, nhịn đói, tập luyện thể dục quá mức. Thường kèm theo các biến chứng cơ thể như mất nước, suy giảm nhịp tim... Các cơn ăn vô độ và hành vi bù trừ không thích hợp xảy ra trung bình ít nhất 2 lần một tuần, trong vòng ba tháng. Người mắc bệnh có trọng lượng bình thường, hoặc chỉ nhỉnh cân một chút, nhưng lại cảm thấy mình béo và không hấp dẫn.


Người háu ăn có thể ăn liên tục dù rất no

Họ ăn kiêng nhằm kiểm soát thân thể, nhưng do bị đói nên có lúc ăn một lượng thức ăn quá nhiều. Quá xấu hổ và sợ bị béo ra, họ tạm thời ngừng ăn hoàn toàn, có thể luyện tập quá mức và thường gây nôn hoặc lạm dụng thuốc tẩy để thanh lọc bản thân ở mức độ cực đoan nhất. Bệnh thường gặp ở độ tuổi từ 18 - 20, chủ yếu ở thanh thiếu niên, tỷ lệ mắc từ 5 - 10% trong số nữ ở tuổi trung học và nữ thường chiếm đa số hơn nam.

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới chứng háu ăn tâm thần: người bệnh có tiền sử bệnh lý béo phì, tự ti về hình dáng cơ thể. Đôi khi là do lời bình luận của gia đình, bạn bè về trọng lượng và hình dáng. Phần lớn không phát triển thành bệnh, chỉ một số phụ nữ nào có nhân cách không ổn định hoặc đang trong giai đoạn stress kéo dài, quá tự ti với chính bản thân mới có nguy cơ mắc bệnh cao.

Bên cạnh đó là do áp lực muốn có một thân hình mảnh mai một cách không thực tế dẫn tới chỗ nhiều phụ nữ không bằng lòng với cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh của mình.

Cách điều trị

Càng sớm can thiệp khi các rối loạn ăn uống mới bắt đầu thì kết quả càng khả quan. Thời gian bình phục có thể mất hằng tháng hay hằng năm, nhưng phần lớn đều khỏi. Những thay đổi trong hành vi ăn uống có thể là do sự phối hợp nhiều bệnh khác nhau gây ra, do vậy, bước đầu tiên phải làm là khám sức khoẻ tổng quát. Trong việc chữa trị không chỉ có bác sĩ tâm lý mà còn bao gồm các bác sĩ chuyên ngành dinh dưỡng, đồng thời phải chữa cả bệnh lý để đạt hiệu quả cao nhất.

Việc điều trị có thể bao gồm:

- Cung cấp kiến thức về dinh dưỡng hợp lý và sức khỏe.
- Hướng dẫn cụ thể về thực phẩm, thực đơn sử dụng, cách chế biến.
- Tạo lại các thói quen ăn uống lành mạnh.
- Tác động về mặt tâm lý để giúp người bệnh thay đổi niềm tin và hành vi có hại liên quan tới ăn uống.
- Thuốc trị trầm cảm có thể được dùng để làm giảm bớt tâm trạng lo âu, nếu có.

Việc nhập viện có thể cần thiết cho những người bị suy dinh dưỡng trầm trọng, điều thường gặp ở bệnh nhân chán ăn tâm thần. Gia đình và bạn bè của người mắc chứng rối loạn ăn uống có thể cảm thấy bối rối và đau khổ, do vậy, một phần quan trọng trong việc chữa trị là hỗ trợ và giáo dục.

Việc điều trị chứng ăn vô độ tâm thần phải được các chuyên gia tâm thần xác định. Liệu pháp tâm lý được dùng chủ yếu trong trường hợp này. Khi đó, các nhà tâm lý lâm sàng thường triển khai một số liệu pháp như nhận thức hành vi, liệu pháp hệ thống, liệu pháp thư giãn, luyện tập...
thuychi
Mời quý vị độc giả đọc tin hàng ngày về chủ đề sức khỏe tại suckhoecong.vn trong chuyên mục Khỏe đẹp