Bệnh bạch hầu nguy hiểm thế nào, ai có nguy cơ mắc bệnh?

Bệnh bạch hầu do trực khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây nên, lây theo đường hô hấp và có khả năng gây dịch.

Nữ sinh Bắc Giang mắc bệnh bạch hầu sau khi tiếp xúc với ca bệnh tử vong

Podcast: Cảnh giác với biến chứng nhiễm trùng hạt tophi do bệnh gout lâu năm

Bỏng ngô giảm nguy cơ mắc bệnh tim và đái tháo đường type 2?

Dòng chảy Sức khỏe+: Bộ Y tế lập 2 đoàn kiểm tra công tác phòng chống bệnh bạch hầu

Những ngày vừa qua thông tin về một ca tử vong do bệnh bạch hầu tại Nghệ An và một ca mắc tại Bắc Giang do tiếp xúc với ca tử vong khiến nhiều người lo lắng.

CDC Bắc Giang xác định 15 người tiếp xúc gần với bệnh nhân là nữ sinh 18 tuổi mắc bệnh bạch hầu, ở huyện Hiệp Hòa. Tất cả được cách ly, theo dõi sức khỏe, lấy mẫu bệnh phẩm xét nghiệm. Nhân viên y tế điều trị dự phòng cho nhóm này bằng kháng sinh trong vòng 7 ngày, theo dõi sức khỏe trong 14 ngày kể từ khi tiếp xúc gần lần cuối với ca bệnh.

Tại Nghệ An, tính cho đến nay đã xác định có 119 trường hợp tiếp xúc với nữ bệnh nhân tử vong do bạch hầu.

PGS.TS. BS Đỗ Duy Cường - Giám đốc Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm trùng - nhiễm độc, lây theo đường hô hấp và có khả năng gây dịch, do trực khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây nên. Bệnh thường gặp ở trẻ em và ở đối tượng chưa có miễn dịch với bệnh bạch hầu do chưa được tiêm vaccine đầy đủ. Vi khuẩn khu trú ở đường hô hấp trên tạo giả mạc dai dính, khó bóc tách và sinh ra ngoại độc tố gây nhiễm độc toàn thân, nguy cơ tử vong do biến chứng tắc đường thở và viêm cơ tim.

Ngay cả khi được điều trị, tỷ lệ tử vong của bệnh cũng lên tới 5-10%. Bệnh bạch hầu thuộc nhóm B (là các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có khả năng lây truyền nhanh và tử vong) trong Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm.

Đánh giá về nguy cơ lây lan bệnh bạch hầu trong cộng đồng, PGS. Đỗ Duy Cường cho rằng, nguy cơ này là không lớn do các ca bệnh hiện nay phát hiện mang tính chẩt lẻ tẻ, bên cạnh đó, hầu hết các đối tượng trẻ em hiện nay đều đã được tiêm phòng vaccine khi còn nhỏ. Chỉ có những trẻ chưa được tiêm phòng vaccine hoặc tiêm chưa đầy đủ theo lịch tiêm chủng thì mới có khả năng mắc bệnh.

Lý giải về sự quay trở lại của bệnh bạch hầu, ông Cường cho biết, chương trình tiêm chủng mở rộng đã đem lại nhiều hiệu quả để phòng các bệnh dịch thông thường. Tuy nhiên, ở những nơi vùng sâu vùng xa, độ bao phủ tiêm chủng thấp sẽ dẫn tới lỗ hổng miễn dịch và do đó bệnh còn lưu hành và khó có thể dập tắt.

Người mắc bệnh bạch hầu có những triệu chứng gì?

Dấu hiệu điển hình ở người mắc bệnh bạch hầu là xuất hiện giả mạc trắng ở họng

Dấu hiệu điển hình ở người mắc bệnh bạch hầu là xuất hiện giả mạc trắng ở họng

Theo PGS. Đỗ Duy Cường, sau khi ủ bệnh từ 2-5 ngày, người mắc bệnh bạch hầu thường có triệu chứng sốt nhẹ, đau họng, khó chịu, mệt mỏi, ăn kém, da xanh, chảy nước mũi, họng hơi đỏ. Đặc biệt khám họng thấy amidan có giả mạc trắng, lúc đầu nhỏ sau lan dần ra bao trùm họng và lưỡi gà, màu trắng, dai, bóc ra dễ chảy máu, hạch cổ sưng to làm cho cổ bạnh ra (bạch hầu họng).

Sau đó, người bệnh có thể dẫn đến các triệu chứng nặng như viêm cơ tim, viêm thanh quản (gây khàn tiếng, ho nhiều, thở rít), suy hô hấp, ngạt thở, suy thận, tổn thương thần kinh. Nếu không được điều trị bằng thuốc đặc hiệu thì có thể dẫn tới tử vong.

Bệnh chủ yếu lây qua đường hô hấp khi tiếp xúc với giọt bắn của người nhiễm bệnh lúc ho, hắt hơi. Ngoài ra, bệnh có thể lây qua con đường gián tiếp khi tiếp xúc với đồ vật bị nhiễm dịch mũi hầu từ người bệnh. Bệnh cũng có thể lây nhiễm khi tiếp xúc với vùng da tổn thương do bạch hầu.

Cách phòng và điều trị bệnh bạch hầu

Chuyên gia Bệnh viện Bạch Mai chia sẻ, liệu pháp điều trị đặc hiệu đối với bệnh bạch hầu là kháng sinh và huyết thanh kháng độc tố bạch hầu (Anti-Diphteria Serum-ADS). Các kháng sinh thông thường như: Penicillin G, Erythromycin hoặc Azithromycin có thể diệt được vi khuẩn bạch hầu, thời gian điều trị từ 10-14 ngày.

Để phòng bệnh bạch hầu, PGS. Đỗ Duy Cường khuyến cáo mọi người nên thực hiện các biện pháp phòng bệnh bao gồm:

- Rửa tay đúng quy cách bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn. Nhà ở của người bệnh, dụng cụ trong phòng, đồ dùng, đồ chơi, quần áo của người bệnh phải tẩy uế và sát khuẩn.

- Tiêm vaccine bạch hầu trong chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia, dùng vaccine đa giá (chứa từ 2 chủng/type của vi khuẩn hoặc virus trong 1 liều vaccine): bạch hầu-ho gà-uốn ván cho trẻ. Bắt đầu tiêm từ 2-3 tháng tuổi, tiêm 2 lần, mỗi lần 1ml cách nhau 1 tháng. Một năm sau nhắc lại mỗi một năm 1 lần cho đến 5 tuổi; Người lớn chưa được tiêm hoặc không có miễn dịch cần được tiêm nhắc lại 1 mũi.

- Với người tiếp xúc, xét nghiệm vi khuẩn và theo dõi trong vòng 7 ngày. Ngoài ra cần uống thuốc dự phòng bằng Erythromycin hoặc Azithromycin trong 7 ngày.

 
Hiệp Nguyễn
Mời quý vị độc giả đọc tin hàng ngày về chủ đề sức khỏe tại suckhoecong.vn trong chuyên mục Điểm tin - Báo bạn