Đại dịch COVID-19 đã tạo ra những thay đổi đáng kể trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và làm tăng đáng kể nhu cầu về thiết bị bảo vệ cá nhân (PPE).
Việc sử dụng PPE trên toàn cầu tăng vọt trong thời kỳ cao điểm của đại dịch, xu hướng này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay với nhận thức vệ sinh tốt hơn và các biện pháp phòng ngừa lây lan dịch bệnh. Tuy nhiên, mặc dù các sản phẩm PPE đã được chứng minh là có thể hạn chế và cách ly chuỗi lây nhiễm, nhưng chúng lại gây ra tổn thất môi trường tiềm ẩn khiến các nhà lãnh đạo ngành và chính phủ trên toàn thế giới lo ngại.
Theo một báo cáo trên Tạp chí Y khoa Anh, chỉ riêng ở Anh, 2,3 tỷ mặt hàng PPE sử dụng một lần đã được phân phối cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và xã hội từ tháng 2 đến tháng 7 năm 2020. Ước tính, trên toàn cầu, 129 tỷ khẩu trang và 65 tỷ găng tay có thể được sử dụng mỗi tháng trong suốt 3 năm đại dịch. Trong khi đó, trước đại dịch, riêng năm 2019, con số sử dụng sản phẩm PPE thấp hơn con số này.
Cho tới nay, hàng chục triệu nhân viên y tế và chăm sóc sức khỏe cần được cung cấp các sản phẩm PPE liên tục để đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh ngày càng tăng. Quy mô nhu cầu PPE dẫn đến mối lo ngại về môi trường. Hầu hết các sản phẩm PPE cũng chứa các thành phần nhựa khác, có thể mất tới 400 năm để phân hủy. Với tốc độ thải bỏ hiện tại, các sản phẩm PPE có thể nhanh chóng làm đầy các bãi chôn lấp hiện có.
Những xu hướng bất lợi về môi trường này đã làm dấy lên mối lo ngại ngày càng tăng, thúc đẩy việc xem xét lại việc sản xuất, sử dụng và quản lý các sản phẩm PPE có thể tái chế.
Những điều này nên bao gồm việc đánh giá chuỗi cung ứng và thực tiễn vận chuyển vật tư trong nước và thông qua xuất khẩu. Các công ty thường chia nhỏ lộ trình sản xuất PPE tuyến tính như sau:
Khai thác: Sản xuất PPE đòi hỏi nguồn cung cấp nguyên liệu thô ổn định, chẳng hạn như polymer. Các phương pháp khai thác thường xuyên được triển khai có thể làm đảo lộn đáng kể hệ sinh thái tự nhiên, gây ô nhiễm nguồn nước và không khí ở những khu vực tài nguyên này. Hoạt động khai thác có thể ảnh hưởng trực tiếp đến đất đai, động vật, thực vật và con người và có thể mất nhiều năm để phục hồi một cách tự nhiên. Trong những trường hợp hiếm gặp và nghiêm trọng hơn, những hoạt động này có thể dẫn đến thiệt hại không thể khắc phục được trong khu vực và khiến cộng đồng phải di dời.
Sản xuất và chế biến: Sau khi khai thác, các công ty phải tinh chế nguyên liệu thô thành các thành phần có thể sử dụng được phù hợp cho sản xuất PPE. Các nhà máy chế biến được chỉ định để tinh chế các thành phần thô hoạt động với nhu cầu năng lượng cao, cần thiết để duy trì hoạt động quy mô lớn một cách liên tục. Những điều này dẫn đến việc tạo ra khí nhà kính như một sản phẩm phụ, làm hỏng tầng ozone bảo vệ Trái đất.
Sự ô nhiễm từ các cơ sở sản xuất cũng có thể lan sang các nhánh sông gần đó, dẫn đến ô nhiễm các con sông và đại dương. Người dân sống gần đó có thể mắc các bệnh mạn tính do tiếp xúc thường xuyên với khói độc và nước ô nhiễm.
Vận tải: Tác động bất lợi truyền thống của PPE đối với môi trường vẫn tiếp tục xảy ra với các chuỗi cung ứng phức tạp thường xuyên cung cấp vật tư trên toàn thế giới để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe. Chúng bao gồm việc di chuyển bằng đường hàng không để xuất khẩu và phương tiện giao hàng chạy bằng nhiên liệu thải ra một lượng lớn các thành phần gây hại cho khí hậu vào môi trường.
Khi xem xét vấn đề vận chuyển, điều quan trọng đối với những người ra quyết định là phải xem xét các giải pháp đóng gói. Bao bì sản phẩm PPE tiêu chuẩn thường bao gồm nhựa, dần dần phân hủy thành vi nhựa. Những hạt mịn này cuối cùng đã trôi vào đường thủy và đại dương khi được thải bỏ, ảnh hưởng đến chất lượng nước và đời sống biển. Đổi lại, con người có thể tiêu thụ hải sản và trực tiếp nuốt phải vi nhựa dẫn đến các vấn đề sức khỏe khác.
Xử lý chất thải bán lẻ và PPE: Khi kết thúc vòng đời sản phẩm PPE, người dùng cuối có thể gặp các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn do hít phải, vô tình nuốt phải hoặc tiếp xúc với một số hợp chất độc hại, chẳng hạn như PFA, thường thấy trong các thành phần nhựa của các mặt hàng PPE thông thường.
Các nghiên cứu khoa học đã liên kết PFA với nguy cơ rối loạn nội tiết, tổn thương gan và các bệnh về chuyển hóa và phát triển khác. Bên cạnh những nguy hiểm khi sử dụng sản phẩm, người tiêu dùng cũng có thể gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn nữa thông qua các biện pháp xử lý không đúng cách. Ví dụ, các cá nhân có thể xả rác ở bãi biển hoặc có thói quen tái chế không thích hợp dẫn đến tích tụ bãi rác.
Chu trình sản xuất PPE tuyến tính sẽ tiếp tục ảnh hưởng xấu đến dân số và môi trường nếu không được giám sát mà không có sự can thiệp thích hợp. Về lâu dài, điều này có thể dẫn đến sự gia tăng các vấn đề về chăm sóc sức khỏe, chi phí và các cuộc khủng hoảng khác, chẳng hạn như xảy ra nhiều thảm họa liên quan đến khí hậu hơn. Vì mối lo ngại về chất thải PPE dường như là một vấn đề tuần hoàn nên các doanh nghiệp, chính phủ và cá nhân phải xem xét một giải pháp tuần hoàn tương tự.
Việc xem xét quá trình sản xuất và xử lý PPE truyền thống cho thấy một giải pháp ba hướng tiềm năng có thể giúp giảm thiểu tác động đến môi trường. Các nhà sản xuất PPE có thể xem xét sửa đổi chính sách bền vững của mình để bao gồm các biện pháp sau:
Một chương trình tái chế có hệ thống và được vạch ra rõ ràng sẽ giúp đảm bảo rằng các vật liệu PPE trải qua các quy trình bền vững nhất để giảm tác động tiêu cực của chúng đến Trái đất. Chúng có thể bao gồm các hội thảo và hội thảo dành cho nhân viên y tế và công chúng. Tuy nhiên, điều quan trọng là hành động thực tế.
Ví như ở Ấn Độ, năm 2021, khi Đại dịch ở Ấn Độ vẫn đang ở mức căng thẳng, một dự án sáng tạo đã biến các thiết bị bảo hộ cá nhân (PPE) thành một giải pháp dành cho giấc ngủ - những chiếc đệm PPE. Một trong những công ty tham gia dự án đó là Shayya (trong tiếng Phạn là đệm). Công ty Shayya đã sử dụng phế liệu từ các nhà máy PPE của Ấn Độ và bện chúng lại với nhau để tạo ra những chiếc khăn trải giường nhẹ, rẻ và hợp vệ sinh. Sự phối hợp của công ty với các nhà máy sản xuất thiết bị bảo hộ cá nhân bằng PPE đã giúp các công ty tận dụng các chất thải phát sinh của quá trình sản xuất, tạo ra những chiếc đệm, khăn trải giường bằng PPE. Những chiếc đệm, khăn trải giường bằng PPE vừa rẻ hơn vừa dễ khử trùng hơn so với nệm thông thường được sử dụng trong các trung tâm điều trị. Ngoài ra, đây cũng là giải pháp cho các gia đình, góp phần bảo vệ môi trường mà vẫn đảm bảo giấc ngủ ngon cho mọi người. Ấn Độ là nước sản xuất PPE lớn thứ hai thế giới, với hơn 1.000 nhà sản xuất sản xuất 4,5 triệu chiếc mỗi ngày, theo The Guardian.
Các nhà sản xuất PPE nên cân nhắc đầu tư vào nghiên cứu và phát triển sâu hơn để khám phá các giải pháp thay thế thân thiện với môi trường cho các thành phần nhựa tiêu chuẩn. Những điều này có thể cho phép các nhà sản xuất khám phá các sản phẩm an toàn hơn, lâu dài hơn, đáp ứng nhu cầu của ngành trong khi vẫn giảm thiểu ô nhiễm.
Các công ty PPE có thể xem xét thay thế phương pháp đốt nhiên liệu hóa thạch bằng các giải pháp năng lượng tái tạo mà không tạo ra sản phẩm phụ có hại cho môi trường. Tương tự, các công ty có thể trang bị lại chuỗi cung ứng bằng phương tiện vận chuyển nhiên liệu điện.
Ở quy mô lớn hơn, các doanh nghiệp, tổ chức chính phủ, nhóm môi trường và cá nhân phải cùng nhau đối mặt với tác động rộng lớn hơn của cuộc khủng hoảng rác thải PPE. Bằng cách hợp nhất các nguồn lực và nâng cao nhận thức hơn, cộng đồng có thể tiến bộ để đảm bảo rằng ngành chăm sóc sức khỏe luôn được bảo vệ bằng PPE mà không để lại hậu quả môi trường xã hội không mong muốn.
Cải thiện tình hình quản lý chất thải PPE cần có thời gian vì còn nhiều việc phải làm để đảo ngược cuộc khủng hoảng này. Điều này bao gồm việc phân bổ ngân sách mới và thực hiện các thay đổi về hành chính và vận hành đối với vòng đời sản xuất. Tuy nhiên, bất chấp thách thức đó, các công ty và cơ quan chính phủ phải hợp tác cùng nhau để hiện thực hóa sự thay đổi cần thiết.
Một phân tích mới được công bố trên tạp chí Science cho thấy cách tiếp cận kinh doanh thông thường để giải quyết ô nhiễm nhựa đại dương không hiệu quả. Nếu chúng ta tiếp tục đi theo quỹ đạo hiện tại, lượng rác thải nhựa đổ ra đại dương sẽ tăng gấp ba lần vào năm 2040. Nhưng điều độc đáo ở nghiên cứu này là nó tập trung vào các giải pháp có thể ngăn chặn cuộc khủng hoảng này. Bằng cách sử dụng tất cả công nghệ hiện có, chúng ta có thể giảm 80% lượng nhựa thải ra đại dương - và với khoản đầu tư bổ sung dành cho đổi mới, chúng ta có thể tiến gần hơn tới 100%.
Năm 2020, Indonesia – quốc gia có đường bờ biển dài, đa dạng sinh học và nền kinh tế biển đang bị đe dọa nghiêm trọng do ô nhiễm nhựa gia tăng, đã có hành động thiết thực. Chính phủ Indonesia đã công bố Kế hoạch hành động với sự góp mặt của nhiều cơ quan, tổ chức có liên quan trong đó có Diễn đàn Kinh tế Thế giới, đề xuất một lộ trình táo bạo giảm lượng rác thải nhựa vào các đại dương của Indonesia tới 70% vào năm 2025, cũng như đạt được mức ô nhiễm nhựa gần như bằng 0 vào năm 2040 thông qua việc chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn đối với nhựa.
Kế hoạch hành động này tập trung vào các giải pháp hữu hình, phù hợp, có thể mang lại hiệu quả thực tế cho Indonesia, trong các lĩnh vực như tăng cường năng lực thu gom rác thải và thúc đẩy các giải pháp thay thế cho nhựa. Các khuyến nghị, đề xuất được hình thành thông qua sự hợp tác chặt chẽ và xây dựng sự đồng thuận với các chuyên gia về ô nhiễm và rác thải nhựa hàng đầu ở Indonesia trên mọi lĩnh vực.
Hiện nay, kế hoạch hành động này của Indonesia dù vẫn còn nhiều điều phải bàn nhưng cũng đã thu được các thành tựu ban đầu, mà quan trọng nhất là nhận thức của cộng đồng. Kế hoạch này của Indonesia cũng đã được chuyển giao cho Ghana và Việt Nam. Mặc dù mỗi quốc gia đều phải đối mặt với những thách thức riêng, nhưng việc có thể được nhân rộng ở quy mô nhận thức và hành động, từ việc giảm sự phụ thuộc vào nhựa sử dụng một lần đến tăng cường cơ sở hạ tầng tái chế để theo kịp mức rác thải nhựa hiện có.
Bình luận của bạn