Tình dục đồng giới và nguy cơ mắc bệnh xã hội

Tình dục không an toàn khiến người đồng tính phải gánh chịu nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần

Tại sao đồng tính giả "nở rộ" ở Việt Nam?

Đồng tính - Rầm rộ trào lưu

Đồng tính - Bệnh lý hay khuynh hướng tình dục tự nhiên?

Đồng tính: Nỗi đau xưa và hạnh phúc hiện tại

Hoang mang không biết mình có đồng tính

Người đồng tính dễ mắc bệnh xã hội

Một số bộ phận người đồng tính hiện nay vẫn chưa hoàn toàn hiểu chính xác về “quan hệ tình dục an toàn” là như thế nào và “hành vi nguy cơ cao” ra sao nên chưa chú trọng việc phòng tránh bảo vệ bản thân mình. Đáng nói là hầu hết trong số họ đều rất e ngại đi khám bệnh vì sợ người khác biết và kỳ thị nên việc lây lan bệnh trong cộng đồng người đồng tính càng khó kiểm soát.

Theo chuyên gia, tình dục đồng giới (homosexual) là sự say mê tình dục với người cùng giới. Biểu hiện là những người cùng giới “yêu” nhau, nam yêu nam, nữ yêu nữ, họ chăm sóc, chiều chuộng, sống với nhau như vợ chồng. Họ cũng có sự ghen tuông, hờn giận, nhớ nhung, xa nhau thấy nhớ, trong khi đó họ lại hoàn toàn thờ ơ với những người khác giới.

Đồng tính hiện nay được coi là một xu hướng cố định của một bộ phận dân số, nhất là giới trẻ. Tuy nhiên, những người dám công khai giới tính thật của mình rất ít vì họ sợ bị xa lánh, kỳ thị. Điều này khiến người đồng tính là đối tượng rất dễ mắc các bệnh lây qua đường tình dục do chủ quan và thiếu thống tin về sức khỏe tình dục đồng giới.

Tại Việt Nam, một thành viên trong cộng đồng người đồng tính chia sẻ, số người đồng tính nam khá đông, tập trung ở các thành phố lớn như TP.HCM, Hà Nôi. Tuy nhiên, số người dám lộ diện hoặc công bố xu hướng tính dục rất ít, phần lớn họ đều giấu kín giới tính thật của mình với gia đình và xã hội.

Sự bất công của xã hội đối với những người đồng tính đã khiến cho nhiều hệ lụy xảy ra, đồng thời lúc bấy giờ rất ít sách báo, tài liệu nói về người đồng tính và bảo vệ sức khỏe cho chính bản thân họ nên nhiều người trẻ khi biết mình thuộc giới tính thứ 3 đã rất khổ tâm, bi quan, chán nản rồi sa ngã.

Trường hợp của anh Trần Ngọc M. (Nghệ An) là một ví dụ. Từ thời đi học, anh M. đã thấy bản thân đã có sự khác biệt, đặc biệt là khi anh rung động trước một cậu con trai cùng lớp. Đấy là lần đầu tiên anh biết mình là người đồng tính và cuối năm lớp 12 anh đã đem nỗi lòng đó tâm sự với cha mẹ. Những tưởng nhận được sự cảm thông từ phía gia đình nhưng từ khi bộc lộ giới tính thật, anh M. lại bị cả nhà coi là "tội đồ". Không chịu nổi sự dày vò, anh M. bỏ nhà ra đi. Được một người bạn đồng giới dẫn mối, anh đi làm tại một quán tẩm quất dành cho nam. Trước sự cám dỗ, anh M. dẫn thân vào con đường "trai bao" và không biết vị khách nào đã truyền căn bệnh thế kỷ HIV-AIDS sang cho anh từ bao giờ. 

Sự bất công của xã hội đối với người đồng tính đã gây ra nhiều hệ lụy

Không bi đát như M., Văn T. là một trường hợp đang điều trị nam khoa do bị sùi mào gà. Vốn là người đồng tính và chỉ thích quan hệ đồng giới, trong một lần đi công tác T. đã gặp lại một người bạn trước cùng tham gia câu lạc bộ đồng tính và đã quan hệ mà không có biện pháp phòng tránh nào. Sau một thời gian T. thấy vùng kín có những biểu hiện nổi nhiều mụn rộp, khi đi khám bác sỹ cho biết cậu bì sùi mào gà.

Tỷ lệ người đồng tính dùng bao cao su rất thấp

Tình dục đồng giới không an toàn khiến những người đồng tính phải gánh chịu nỗi đau về thể xác và ảnh hưởng lớn đến sức khỏe. Ngoài việc bị lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, những người đồng tính nam hay bị viêm niêm mạc trực tràng, bị trĩ, rối loạn tiêu hóa, suy nhược thần kinh... Với những người đồng tính nam, có hai dạng hành vi tình dục gây nguy cơ đó là làm tình bằng miệng (Oral sex) và tình dục hậu môn. Do đó, các bệnh như lậu, giang mai, sùi mào gà, nấm và ký sinh trùng, HIV/AIDS… đều có nguy cơ mắc phải.

Tuy nhiên, một thực tế hiện nay là nhiều người đồng tính thiếu hiểu biết về quan hệ tình dục an toàn và khả năng nguy hại tới sức khỏe là rất nhiều. Một số người đồng tính còn hiểu sai về nguy cơ lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục như: “Quan hệ tình dục nam - nữ thì mới bị HIV”; “Sử dụng chất bôi trơn trong quan hệ tình dục thì không thể nhiễm HIV”; “Gay với gay thì không nhiễm HIV mà chỉ có ma túy và mại dâm mới làm lây nhiễm HIV”;…

Ở Mỹ, theo tạp chí Boston Globe (2007), bệnh giang mai hay xảy ra ở những người đồng tính luyến ái nam do họ không sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục. Một điều đáng lo lắng là nhiều người trong số họ có tư tưởng hưởng thụ quan hệ tình dục không an toàn (không dùng bao cao su). Chính vì vậy mà những người đồng tính luyến ái nam được xếp vào nhóm những người có nguy cơ cao bị lây nhiễm HIV/AIDS (đồng tính luyến ái nam, nghiện chích ma túy, gái mại dâm…).

Tại Việt Nam, bà Nguyễn Thị Huệ - Trưởng phòng can thiệp và giảm tác hại, Ủy ban Phòng chống HIV/AIDS TP.HCM cho biết, kết quả thống kê trên cả nước từ năm 2006 đến năm 2009 của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương cho thấy có khoảng 16% người nhiễm HIV thuộc nhóm nam quan hệ tình dục với nam. “Qua điều tra, phần lớn các bệnh nhân HIV là người đồng tính nam cho biết họ ít hoặc thậm chí không dùng bao cao su khi quan hệ tình dục. Riêng điều tra của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương cho thấy chưa đến 40% người đồng tính dùng bao cao su và đây chính là nguyên nhân khiến bệnh lây lan”, bà Nguyễn Thị Huệ nói.

Bản thân người đồng tính phải biết tự bảo vệ chính mình

Đồng quan điểm, ông Tùng Vũ - Chủ tịch quốc gia nhóm công tác kỹ thuật MSM (người quan hệ đồng tính nam) cũng nhìn nhận tỷ lệ người đồng tính dùng bao cao su khi quan hệ tình dục là rất thấp. “Một số người cho rằng, nam và nam quan hệ không có nguy cơ lây bệnh. Số khác thấy bạn tình trẻ trung đẹp trai nên chủ quan bạn không mắc bệnh. Bên cạnh đó, sự kỳ thị của xã hội cũng khiến người đồng tính quan hệ lén lút, bất chợt nên không có được các biện pháp tình dục an toàn”, ông Tùng cảnh báo.

Số liệu mới nhất được BS. Tiêu Thị Thu Vân - Chánh văn phòng thường trực Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM cho biết, từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên vào tháng 12/1990, đến tháng 6/2014, TP.HCM đã có gần 60.000 người nhiễm HIV.

So với năm 2008, năm 2013 số trường hợp nhiễm mới HIV được phát hiện là 1.733 ca, giảm hơn 3.000 ca. Số chuyển sang AIDS giảm gần 2.000 ca, số tử vong do AIDS cũng giảm 313 ca. Tuy được khống chế nhưng các trường hợp nhiễm HIV tại TP.HCM vẫn đang ở mức cao trong các nhóm tiêm chích ma túy, mại dâm và có xu hướng tăng trong nhóm nam có quan hệ tình dục đồng giới (từ 7,33% năm 2012 lên 14,75%).

Trong khi đó quan hệ tình dục ở những người đồng tính nữ tuy nguy cơ lây nhiễm bệnh như HIV không cao như đồng tính nam nhưng các nguy cơ về bệnh xã hội cũng không phải thấp. Ngoài ra, tỷ lệ đồng tính nữ trầm cảm và lo âu luôn cao hơn phụ nữ bình thường. Bệnh trầm cảm ở phụ nữ đồng tính khiến họ sống khép kín hơn và không tìm kiếm sự giúp đỡ, tư vấn hay hỗ trợ từ những người xung quanh.

Hiện nay không ít người đồng tính cho rằng, chỉ quan hệ với “khách quen”, được mình tin tưởng thì hoàn toàn “sạch sẽ”, không bao giờ lo nhiễm bệnh. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu gần đây thì chỉ khoảng 10 năm nữa, một nửa nam giới nhiễm HIV trong khu vực Châu Á và Tây Thái Bình Dương sẽ là người đồng tính. Vì vậy việc truyền thông, tạo điều kiện cho những người đồng giới nam được tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ xã hội và dịch vụ y tế để phòng chống HIV/AIDS là điều vô cùng quan trọng.
M.Hiếu H+ (Tổng hợp)
Mời quý vị độc giả đọc tin hàng ngày về chủ đề sức khỏe tại suckhoecong.vn trong chuyên mục Bạn đọc viết