Bí ẩn về những người được coi là "miễn nhiễm" với COVID-19

Giải mã về bí ẩn về những người được coi là "miễn nhiễm" với COVID-19 - Ảnh: News 18 Creative.

Giải mã "bí ẩn" COVID-19 ở Nhật Bản và Châu Phi

Chúng ta đã thực sự “vén màn” được bí ẩn về COVID-19?

Bí ẩn của Covid-19: Tại sao cùng nhiễm virus, có người thiệt mạng, người lại chẳng bị sao?

Đại dịch COVID-19 sẽ kết thúc như thế nào?

Một trong những bí ẩn lớn đã xuất hiện từ khi đại dịch COVID-19 bắt đầu và vẫn đang được các chuyên gia về bệnh truyền nhiễm điều tra là lý do tại sao một số người mắc COVID-19 trong khi những người khác thì không, ngay cả khi họ đều tiếp xúc với virus.

Mặc dù cũng có những gia đình mà toàn bộ thành viên đã mắc COVID-19 và phải cách ly nhưng cũng có rất nhiều câu chuyện về những cặp vợ chồng, người mắc người không, những gia đình, nhóm đồng nghiệp có người "miễn nhiễm" với COVID-19.

Danny Altmann, Giáo sư miễn dịch học tại Đại học Imperial College London (Anh) nói với CNBC rằng, các nghiên cứu chỉ ra khả năng bị nhiễm bệnh trong một hộ gia đình khi có một trường hợp dương tính “không cao như bạn tưởng tượng”.

Ngày càng có nhiều nghiên cứu tìm hiểu lý do tại sao một số người dường như không bao giờ mắc COVID, còn gọi là “Never COVID”. Tháng trước, một nghiên cứu mới được công bố bởi Đại học Imperial College London (Anh) cho thấy những người có mức tế bào T (một loại tế bào trong hệ miễn dịch) cao hơn do nhiễm virus cảm lạnh thông thường ít có khả năng nhiễm SARS-CoV-2.

Tiến sĩ Rhia Kundu, tác giả của nghiên cứu trên, nói rằng “việc tiếp xúc với virus SARS-CoV-2 không phải lúc nào cũng dẫn đến nhiễm bệnh và chúng tôi rất muốn hiểu tại sao”.

"Chúng tôi phát hiện ra rằng lượng tế bào T tồn tại từ trước, được tạo ra bởi cơ thể khi bị nhiễm các virus Corona khác ở người như cảm lạnh thông thường, có thể bảo vệ chống lại lây nhiễm COVID-19", bà Rhia Kundu nói thêm.

Tuy nhiên, tiến sĩ Kundu cũng cảnh báo rằng, "mặc dù đây là một khám phá quan trọng, nó chỉ là một hình thức bảo vệ và tôi nhấn mạnh rằng không nên dựa vào một điều này. Thay vào đó, cách tốt nhất để bảo vệ bản thân trước COVID-19 là tiêm phòng đầy đủ, bao gồm cả tiêm liều nhắc lại"

Mặt khác, Lawrence Young, một giáo sư về ung thư học phân tử tại Đại học Warwick nói với CNBC rằng: "có nhiều mối quan tâm đến những trường hợp được gọi là 'không bao giờ bị nhiễm bệnh' - never Covid ' - những người rõ ràng đã tiếp xúc gần với những người bị bệnh nhưng chính họ là những người có khả năng chống lại sự lây nhiễm".

Theo giáo sư Lawrence Young, dữ liệu ban đầu cho thấy những người này đã có được khả năng miễn dịch một cách tự nhiên sau những lần khỏi cảm lạnh thông thường trước đây. Ước tính, khoảng 20% trường hợp nhiễm lạnh thông thường là do coronavirus cảm lạnh (virus gây bệnh cảm lạnh) thông thường.

Ngoài ra, cũng như mức độ miễn dịch được cung cấp do tiếp xúc trước với coronavirus, tình trạng tiêm chủng ngừa COVID-19 của một người cũng có khả năng là một yếu tố để xác định liệu một số người dễ bị COVID-19 hơn những người khác.

Vai trò của vaccine

Vaccine COVID-19 đã được chứng minh là làm giảm các trường hợp nhiễm bệnh nặng, nhập viện và tử vong - Ảnh: Getty Images

Vaccine COVID-19 đã được chứng minh là làm giảm các trường hợp nhiễm bệnh nặng, nhập viện và tử vong - Ảnh: Getty Images

Tiêm vaccine COVID-19 hiện đã trở nên phổ biến, các mũi tiêm nhắc lại cũng đang được triển khai rộng rãi và trẻ nhỏ đang được tiêm chủng ở nhiều quốc gia, khi các chính phủ nỗ lực bảo vệ càng nhiều người càng tốt khỏi biến thể Omicron dễ lây truyền hơn.

Vaccine COVID-19 đã được chứng minh là làm giảm các trường hợp nhiễm bệnh nặng, nhập viện và tử vong, đồng thời vẫn có hiệu quả phần lớn đối với các biến thể đã biết của SARS-CoV-2. Tuy nhiên, chúng không hiệu quả 100% trong việc ngăn ngừa nhiễm bệnh và khả năng miễn dịch mà chúng cung cấp sẽ suy yếu theo thời gian, thậm chí đã bị tổn hại phần nào bởi biến thể omicron.

Theo CNBC, Andrew Freedman, một học giả về các bệnh truyền nhiễm tại Trường Y Đại học Cardiff (Anh) cho rằng, lý do một số người mắc COVID-19 và những người khác thì không "là một hiện tượng được công nhận rõ ràng và có lẽ liên quan đến khả năng miễn dịch do tiêm chủng, nhiễm bệnh từ trước hoặc cả hai."

“Chúng ta biết rằng nhiều người vẫn bị nhiễm Omicron (hầu hết là nhẹ) dù đã được tiêm phòng đầy đủ, kể cả mũi nhắc lại. Tuy nhiên, việc tiêm phòng vẫn làm giảm nguy cơ mắc Omicron và phản ứng của mỗi người là khác nhau. Một số người nhiễm và những người khác thì không cho dù có sự tiếp xúc rất đáng kể”, ông Freedman nói.

Đề cập tới các phản ứng miễn dịch khác nhau với COVID, giáo sư Lawrence Young thuộc Đại học Warwick cho rằng chắc chắn khả năng miễn dịch phản ứng chéo từ các lần nhiễm trùng trước đó với coronavirus cảm lạnh thông thường có thể là một yếu tố góp phần chính, đặc biệt những người không bị mắc COVID-19 có thể có thêm các lợi ích miễn dịch từ việc  đã được tiêm chủng.

Giáo sư Lawrence Young nhấn mạnh, cần có các nghiên cứu sâu hơn về các trường hợp gọi là "Never COVID-19" để giúp con người có hiểu biết tốt hơn về phản ứng miễn dịch với SARS-CoV-2. "Các nghiên cứu đó sẽ vô cùng hữu ích cho công cuộc tạo ra vaccine phổ quát chống lại mọi biến thể COVID-19".

Yếu tố di truyền

Gene HLA là nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau giữa người nhiễm COVID-19 có triệu chứng và không triệu chứng

Gene HLA là nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau giữa người nhiễm COVID-19 có triệu chứng và không triệu chứng

Một câu hỏi khác đã đặt ra trong đại dịch là tại sao hai người cùng mắc COVID-19 lại có thể phản ứng khác nhau với bệnh: một người có thể có các triệu chứng nặng, và người kia có thể không có triệu chứng. Câu trả lời có thể nằm ở gene của chúng ta.

Altmann, một nhà nghiên cứu thuộc Đại học Imperial London (Anh) cùng các đồng nghiệp của mình đã tiến hành nghiên cứu về mối liên hệ giữa di truyền miễn dịch với khả năng nhiễm COVID-19, và đã phát hiện ra rằng nguyên nhân nằm ở sự khác biệt giữa hệ miễn dịch của mỗi người.

Nghiên cứu tập trung vào gene HLA (kháng nguyên bạch cầu ở người) khác nhau và đang xem xét cách những gene này có thể ảnh hưởng đến phản ứng của một người với COVID-19, với một số loại HLA khiến người đó có khả năng nhiễm virus có triệu chứng hoặc không có triệu chứng.

"Các gene quan trọng kiểm soát phản ứng miễn dịch của bạn được gọi là gene HLA. Chúng quan trọng đối với việc xác định phản ứng của bạn khi gặp phải SARS-CoV-2. Ví dụ, những người mang gene HLA-DRB1*1302 có nguy cơ bị nhiễm trùng có triệu chứng cao hơn đáng kể", ông Altmann nói thêm.

Một thử nghiệm đầy thách thức với COVID-19

Thử nghiệm đầu tiên cung cấp dữ liệu chi tiết về giai đoạn đầu của nhiễm virus SARS-CoV-2, trước và trong khi xuất hiện các triệu chứng - Ảnh: Getty Images

Thử nghiệm đầu tiên cung cấp dữ liệu chi tiết về giai đoạn đầu của nhiễm virus SARS-CoV-2, trước và trong khi xuất hiện các triệu chứng - Ảnh: Getty Images

Tại một thử nghiệm phản ứng bệnh của con người đối với COVID-19 được thực hiện ở Anh, các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Imperial London đã cho 36 thanh niên khỏe mạnh cố tình tiếp xúc với COVID-19, nhưng chỉ một nửa trong số họ thực sự nhiễm virus. Kết quả vừa được công bố ngày 2/2/2022.

"Tại sao khi hít phải cùng một liều virus giống hệt nhau mà 50% số người bị nhiễm, 50% còn lại thì không?", Giáo sư Altmann đặt vấn đề liên quan đến thử nghiệm trên.

Theo đó, tất cả người tình nguyện tham gia thử nghiệm đều được tiếp nhận một liều lượng virus thấp - được đưa vào qua đường nhỏ mũi - và sau đó được các nhân viên y tế theo dõi họ cẩn thận trong một môi trường được kiểm soát, trong khoảng thời gian hai tuần.

Trong số 18 tình nguyện viên bị nhiễm bệnh, 16 người tiếp tục phát triển các triệu chứng giống như cảm lạnh từ nhẹ đến trung bình, bao gồm nghẹt mũi hoặc chảy nước mũi, hắt hơi và đau họng.

Đây được coi là thử nghiệm đầu tiên có thể cung cấp dữ liệu chi tiết về giai đoạn đầu của nhiễm virus SARS-CoV-2, trước và trong khi xuất hiện các triệu chứng. Trong số 18 người tham gia bị nhiễm, thời gian trung bình từ lần đầu tiên tiếp xúc với virus đến khi phát hiện virus và có các triệu chứng ban đầu (nghĩa là thời kỳ ủ bệnh) là 42 giờ, ngắn hơn đáng kể so với các ước tính hiện có, cho rằng thời gian ủ bệnh trung bình là 5-6 ngày. 

Sau giai đoạn này, tải lượng virus được tìm thấy trong các mẫu gạc lấy từ mũi hoặc cổ họng của những người tham gia đã tăng mạnh. Tải lượng virus đạt đỉnh trung bình vào khoảng 5 ngày sau khi nhiễm bệnh, nhưng mức độ cao virus sống sót (có thể lây nhiễm) vẫn được ghi nhận trong trung bình 9 ngày sau và tối đa là 12 ngày với một số người.

Đặc biệt, trong khi virus được phát hiện đầu tiên ở cổ họng và sớm hơn đáng kể ở mũi (40 giờ ở cổ họng so với 58 giờ ở mũi), thì mức độ virus thấp hơn và đạt đỉnh sớm hơn ở cổ họng. Mức độ đỉnh điểm của virus trong mũi cao hơn đáng kể trong cổ họng, cho thấy nguy cơ virus bị thải ra từ mũi cao hơn so với miệng.

Cũng chính vì vậy, các nhà nghiên cứu lưu ý rằng mặc dù có khả năng "bỏ sót virus lây nhiễm sớm trong quá trình lây nhiễm, đặc biệt nếu chỉ kiểm tra mũi", tuy nhiên, các xét nghiệm test nhanh COVID-19 vẫn hỗ trợ xác định hiệu quả những người có khả năng lây nhiễm và ngăn chặn sớm sự lây lan của virus.

 
Hiệp Nguyễn (Theo CNBC)
Mời quý vị độc giả đọc tin hàng ngày về chủ đề sức khỏe tại suckhoecong.vn trong chuyên mục Điểm tin - Báo bạn